Lược sử Giáo hội Công giáo (Chương XVI)
10.05.2008
.
Chương XVI
GIÁO HỘI GIỮA
THẾ GIỚI TÂN TIẾN (1870-1939)
Cuối thế kỷ XIX, nhân loại được chứng kiến những bước tiến
nhảy vọt của khoa học kĩ thuật và các khoa học nhân văn. Con người ngày càng ý
thức hơn việc làm chủ lịch sử, muốn chủ động đấu tranh cho hạnh phúc của mình
và xã hội. Trong bối cảnh đó, nhiều người xem tôn giáo như là sản phẩm của con
người dốt nát, như món hàng ế ẩm, và thậm chí còn xem tôn giáo như sức cản đà
tiến của nhân loại. Từ thái độ dửng dưng, họ tuyên bố mình vô tôn giáo hoặc
chống tôn giáo. Khắp Âu Châu, các chính quyền tách dần các sinh hoạt hằng ngày
ra khỏi phạm vi tôn giáo. Giáo Hội gần như chỉ được sinh họat tại nhà thờ, còn
trường học, bệnh viện, các công trình xã hội do chính quyền đảm nhiệm. Tuy
nhiên, diễn biến và mức độ căng thẳng khác nhau tùy mỗi nước.
I.
GIÁO HỘI TẠI CÁC NƯỚC ÂU CHÂU CHO TỚI THẾ CHIẾN I
1.
Tại Giáo Triều Rôma
Đức Piô IX (1846-1878) qua đời, kết thúc triều đại Giáo
Hoàng lâu nhất lịch sử. Đức Lêô XIII (1878-1903) lên kế vị được coi là người
cởi mở với những vấn đề xã hội, kêu gọi người Công Giáo chấp nhận nền Cộng hòa
và đấu tranh chống bất công. Nếu Đức Piô X (1903-1914) luôn ưu tư đến việc mục
vụ : cổ võ rước lễ, tổ chức phụng vụ, Công Giáo tiến hành và chủng viện, thì Đức
Bênêđíctô XV (1914-1922) và Đức Piô XI (1922-1939) được mệnh danh là những nhà
hòa giải qua hàng loạt hòa ước với các quốc gia.
2.
Tại Ý
Sau khi chiếm được Rôma và đặt làm thủ đô nước Ý, chính
quyền ban hành luật Bảo Đảm, tháng 5-1871 đơn phương giải quyết tình trạng Giáo
Hoàng và nước Tòa Thánh. Đức Giáo Hoàng từ chối luật này và cắt đứt bang giao
với nước Ý. Các ngài cấm người Công Giáo tham gia chính trị, cấm ứng cử bầu cử.
Chính do thái độ này mà chính quyền đã gây nhiều khó khăn cho Giáo Hội như cấm
rước kiệu, cấm hành hương, tịch biên tài sản tu viện... Mãi đến năm 1905, nhờ
sự đấu tranh của nhiều giáo sĩ, các tín hữu mới được tham gia đời sống chính
trị.
3.
Tại Đức
Sau chiến thắng Pháp và Áo, đế quốc Đức được thống nhất
quanh nước Phổ (1871). Cùng với bộ trưởng Falk, thủ tưởng Bismark phát động mặt
trận văn hóa tuyên bố chống lại chính sách ngu dân của giới Công Giáo. Kiểm
soát học đường, sa thải các giáo sư tu sĩ. Các giáo sĩ phản đối thì bị bắt và
trục xuất. Năm 1878 chỉ còn bốn giám mục Đức tại vị, hàng ngàn giáo xứ không có
linh mục. Cũng năm đó đảng Dân Chủ xã hội mưu sát Hoàng đế Wilhelm, và Đức Lêô
XIII lên ngôi. Bismark nới rộng luật mặt trận văn hóa và chấm dứt vào năm 1897.
Nhưng hôn nhân vẫn phải theo dân sự.
4.
Tại Pháp
Chính phủ Đệ Tam cộng hòa (1875-1936) mới đầu tỏ vẻ thân hữu
với Giáo Hội. Thế nhưng Quốc Hội chuyển dần sang tay những người cộng hòa vốn
cho rằng Giáo Hội gắn bó với nền quân chủ và rao giảng một thứ tôn giáo ngu dân
cần dẹp bỏ. Đại học Công Giáo mất quyền phát bằng (1879). Bộ trưởng giáo dục J.
Ferry cấm các dòng mở trường, giải tán 261 tu viện. Ông mở trường nữ trung học để
đạo tạo nữ đồng chí cộng hòa, cho phép li dị (1884), bãi bỏ ngày nghỉ chủ nhật,
cấm dạy giáo lí trong trường học. Từ 1901-1903, Thủ tướng Rousseau ra nhiều đạo luật : đóng cửa gần 10.000 trường tư thục
Công Giáo, tịch thu các tu viện, buộc các tu sĩ hoàn tục. Những tín hữu
còn giữ đạo sẽ chấm vào sổ đen và bị kiểm soát. Năm 1905, Pháp công bố đạo luật
phân li, trao tất cả cơ sở Công Giáo cho hiệp hội các tôn giáo quản trị. Giáo
Hội Pháp nghèo hẳn đi, tín hữu phải đóng góp từng xu cho việc phượng tự, nhưng
nhờ đó, Giáo Hội được tự do không lệ thuộc các tổ chức.
5.
Tại Áo và Thụy Sĩ cũng có các chiến dịch tương tự
Năm 1874, cả hai nước đều ban hành đạo luật cấm liên lạc với
Rôma, tục hoá học đường, đảm trách hôn nhân. Nhưng dưới thời Đức Lêô XIII tình
hình đổi khác, đại học Fribourg được thiết lập năm 1889.
6.
Tại Bỉ và Hà Lan
Cũng có xung đột về trường học, nhưng giới Công Giáo đứng ra
mở trường tư, rồi tham gia quốc Hội để cải thiện pháp chế học đường. Các trường
tư Công Giáo về sau được chính quyền trợ cấp.
7.
Tại bán đảo Ibérique
Các xung đột tôn giáo nhiều khi biến thành bạo động. Tây Ban
Nha vẫn coi Công Giáo là quốc giáo. Nhưng dưới thời Cộng hòa (1873-1875 và
1909-1912) đã xảy ra nhiều vụ thảm sát giáo sĩ, cướp phá nhà thờ, tu viện...
Tại Bồ Đào Nha, sau khi lật đổ vua Manuel (1810) chính thể Cộng hòa tuyên bố
phân li với Giáo Hội, chống giáo sĩ, chống hội dòng và cắt đứt ngoại giao với
Vatican năm 1913.
II.
TỪ THẾ CHIẾN I TỚI NHỮNG NĂM 30
1.
Người kitô hữu trong cuộc chiến
Trong thế chiến I, cả phe đồng minh lẫn phe Đức, Áo, Hung đều
nhìn nhận người Công Giáo rất yêu mến tổ quốc. Các giám mục kêu gọi cầu nguyện
cho "quân ta" chiến thắng. (Thiên Chúa đứng về phía nào đây ?). Đức
Bênêđíctô XV không đứng về phe nào, đã gửi đi nhiều Thông Điệp kêu gọi hòa
bình. Tòa Thánh cổ võ những hoạt động nhân đạo như cứu trợ, chăm sóc và trao đổi
thương binh. Năm 1917, Đức Thánh Cha tình nguyện làm trung gian cho hai bên gặp
gỡ. Nhưng cả hai đều muốn kết thúc xung đột bằng chiến thắng chứ không bằng hòa
đàm.
2.
Những cố gắng hòa giải sau chiến tranh
Sau chiến tranh, nước Áo Công Giáo bị chia cắt để thành lập
nước Tiệp và Hung (1921). Tòa Thánh và các quốc gia kí kết nhiều hòa ước. Riêng
Đức Piô XI đã kí 20 hòa ước với các nước Châu Âu, quan trọng nhất là hòa ước
Latêranô kí với Moussolini năm 1929. Người nhìn nhận Rôma là thủ đô Ý, còn nước
Ý nhận quyền Giáo Hoàng trong lãnh vực tôn giáo, và điều hành nước Vatican nhỏ
bé với 44 ha.
Việc phong thánh cho Jeanne d'Arc năm 1920 xác định lập trường
của Giáo Hội cổ vũ người tín hữu yêu nước. Các đảng phái Công Giáo bắt đầu liên
hiệp để hoạt động như đảng Bình dân Ý, Mặt trận Bình dân Pháp.
3.
Khai sinh phong trào Công Giáo tiến hành
Công Giáo tiến hành là hoạt động chuyên biệt của giáo dân
nhằm phục vụ Giáo Hội, giúp đỡ hàng giáo sĩ, rao giảng Tin Mừng hoặc tái rao
giảng Tin Mừng cho thế giới. Những năm 1925-1935, phong trào này mới được tổ
chức qui mô và phát triển, mà khởi đầu là tổ chức Thanh Lao Công do linh mục
Cardin sáng lập ở Bỉ năm 1925, rồi năm sau được lập ở Pháp tiếp đến là Thanh
Nông Công (1929), Thanh Sinh Công (1932), Thanh niên Công Giáo (1935). Đức Piô
XI nồng nhiệt đón nhận và cổ vũ các phong trào này, và tự nhận là Giáo Hoàng
của Công Giáo tiến hành. Phong trào Công Giáo tiến hành đã làm thay đổi những tương
quan giữa Giáo Hội và xã hội, giúp người Công Giáo ý thức được trách nhiệm
trong xã hội.
4.
Người kitô hữu trước chế độ độc tài đảng trị
Thực tế, khuynh hướng độc tài đảng trị đang có cơ hội phát
triển dựa vào tinh thần quốc gia quá khích của dân chúng.
Ở Ý, Moussolini và đảng Phát xít giải tán các đảng khác, nắm
toàn quyền năm 1922, muốn ghìm chặt mọi công dân trong nước từ lúc sinh ra tới
lúc chết trong các tổ chức đảng.
Ở Đức, Hitler nắm chính quyền năm 1933 như một vị cứu tinh
của một dân tộc đang khủng hoảng. Ông giải tán mọi nghiệp đoàn, đảng phái và
bộc lộ ý thức hệ của mình trong cuốn "Cuộc chiến đấu của tôi" mà nội
dung là bài Dothái và chống Kitô giáo.
Ở Nga, cách mạng Tháng Mười thành công năm 1917, tuyên bố
cho tự do tôn giáo, cho phép Chính Thống Nga có giáo chủ Maxcơva là Tykhon
(1918). Đồng thời phát triển phong trào tục hóa : tách nhà thờ khỏi trường học,
trưng thu các cơ sở tôn giáo vì công ích. Hiến Pháp năm 1939 điều 124 xác định
: "Tựû do tôn giáo và tự do tuyên truyền chống tôn giáo". Tiến trình
tục hóa ở Nga lúc này không thuận lợi lắm vì những diễn biến thô bạo của các đảng
xã hội cầm quyền ở Tây Âu như ở Tây Ban Nha (1931-1936) đã triệt hạ 2000 nhà
thờ, thảm sát giáo sĩ... đã để lại một ấn tượng khó quên tạo cơ hội cho Franco
giành thắng lợi. Nhiều người Công Giáo đã mạnh dạn tố cáo sự lợi dụng tôn giáo
của Franco, thế nhưng chủ nghĩa quốc gia đã khiến dân Tây Ban Nha chấp nhận sự độc
tài của ông.
Giáo Triều Rôma đã chống lại các chế độ độc tài đảng trị. Năm
1931, Đức Piô XI ban hành Thông Điệp "Chúng tôi không cần" chống
những lạm dụng của Phát xít Ý. Năm 1937, người lại ra hai Thông Điệp cách nhau
vài ngày : "Với nỗi lo âu hồi hộp" kết án chủ nghĩa độc chủng, việc
bài Dothái và thần thánh hóa Hitler. Còn Thông Điệp "Divini
Redemptoris" (19-3-1937) đánh giá chủ nghĩa Cộng sản không thể dung nạp
với văn minh Kitô giáo. Nhưng dư luận thời đó lại nhạy cảm hơn với Thông Điệp
sau.
|