Lược sử Giáo hội Công giáo (Chương IV)
10.05.2008
.
Chương IV
GIÁO HỘI
TRONG ĐẾ QUỐC KITÔ GIÁO
Đến năm 313, Giáo Hội được thực sự bình an, nhờ vị Hoàng Đế
trở lại Đạo. Đó là Constantinô, đánh dấu bước khởi đầu của “Giáo Hội thời
Constantinô”, tức là thời mà có một quan hệ mới giữa Giáo Hội và xã hội. Giáo
Hội được tháp nhập vào trong một nhà nước tự coi là có Đạo, được nhà nước ưu đãi
đặc biệt. Giáo Hội dựa vào Hoàng Đế để chống lạc giáo và ngoại giáo. Đổi lại,
nhà nước cũng muốn Giáo Hội trở thành chỗ dựa tinh thần. Hai bên có nhiều
chuyện dẫm chân lên nhau. Sau đây ta sẽ thấy những biến đổi của Giáo Hội trong
lòng một nhà nước có đạo đầy ưu ái, cũng như những biến đổi của chính xã hội do
Giáo Hội thực hiện.
Ta sẽ chia ra ba phần chính yếu :
- Tự do tôn giáo đến quốc giáo
- Sự tiến triển của phụng vụ và việc truyền giáo
- Những bước đầu của chế độ đan tu
I. TỰ DO TÔN GIÁO ĐẾN QUỐC GIÁO
1.
Hoàng Đế Constantinô : từ năm 312, sau
khi chiến thắng kẻ thù, cuộc chiến thắng này được coi là có Đức Kitô trợ giúp,
ông bắt đầu gắn bó với Kitô Giáo. Ông trở lại Đạo, nhưng chỉ xin rửa tội lúc
nào trên giường bệnh.
Năm 313, vua Constantinô cai trị phía Tây và Liciniô cai trị
phía Đông. Hai Hoàng Đế đối nghịch nhau, Liciniô lại ghét người công giáo. Khi
chống Liciniô, Constantinô làm cho người ta có cảm tưởng là ông đang tiến hành
một cuộc chiến tranh tôn giáo để bảo vệ Giáo Hội.
Sau khi Liciniô bại trận và bị giết, Constantinô trở thành
Hoàng Đế duy nhất, năm 324.
Có thể nói, niên hiệu này bắt đầu “Đế Quốc Kitô Giáo”.
Constantinô quyết định xây dựng một thủ đô mới ở phía Đông,
gọi là thành Constantinople và ông ở lại đó,
qui tụ quanh mình những tín hữu theo văn hóa Hi Lạp. Việc này mang mầm mống
chia rẽ Giáo Hội trong tương lai.
2.
Vai trò của các Hoàng Đế Công Giáo
Hoàng Đế tự coi mình ngang hàng với các Tông Đồ, hoặc có
danh hiệu là Thượng Tế, tức thủ lĩnh tôn giáo như Môsê, David trong Cựu Ước. Do
đó, ta hiểu vì sao các ngài lại can thiệp vào việc nội bộ của Giáo Hội. Với
danh hiệu này, Hoàng Đế đã triệu tập công đồng.
Các tín hữu biết ơn Hoàng Đế vì được hưởng nhiều đặc ân đặc
lợi. Nhiều thánh đường, đền đài được xây dựng, các hàng giáo phẩm có nhiều
quyền thế, tài sản kếch xù, ngay cả đặc quyền về pháp lí, tòa án của giám
mục... Giám mục được coi ngang hàng với tổng trấn Rôma. Hoàng Đế quan quyền còn
đứng ra can thiệp chống lại các bè rối, như Ariô, từ năm 325.
3.
Việc loại trừ ngoại giáo
Ngay từ đầu, tức 313, vua Constantinô chấp nhận quyền tự do
tôn giáo, phượng tự, với chiếu chỉ gọi là “chiếu chỉ Milan”. Các tôn giáo cũ,
dù không phát triển nhưng vẫn sống. Trừ bên Đông Phương, trong hầu hết các miền
của đế quốc, số kitô hữu chưa tới 50 % dân số. Tôn giáo cổ truyền còn ăn rễ sâu
trong các giai cấp xã hội. Tuy nhiên, trong thế kỉ IV, luật pháp ngày càng trở
nên bất lợi cho các tôn giáo cũ, các Hoàng Đế dần dần cấm chỉ các nghi lễ ngoại
đạo, như cúng tế, ma thuật, bói toán ...
Dưới thời Giulianô (361- 363) : ông là kẻ bội giáo, lại ủng
hộ đạo cổ truyền, viết sách vở tố cáo Kitô Giáo, nhưng không thể ngăn chặn nổi đà
tiến của Kitô Giáo. Ông bị bại trận, được coi là hình phạt của Thiên Chúa.
Sau ông chết, những vị nối ngôi ông lại gia tăng các biện
pháp chống ngoại giáo và cả lạc giáo.
Năm 379 : Gratianô từ bỏ danh hiệu thượng tế.
Năm 380 : Théodosiô coi Công Giáo là quốc giáo. Mọi thực
hành ngoại giáo trong đế quốc bị cấm chỉ (392). Những ngày lễ ngoại giáo không
còn được cử hành, các đền, chùa miếu đều bị phá hủy. Tình thế hoàn toàn đảo ngược
: người ngoại xưa bách hại, nay bị bách hại, nhà nước xưa phục vụ ngoại giáo,
nay phục vụ Kitô Giáo. Việc tôn giáo - nhà nước không thể tách rời. Tôn giáo
vẫn là nền tảng và là chất keo liên kết xã hội.
4.
Kitô Giáo và xã hội
Ngoại giáo bị loại trừ, lịch Công Giáo giữ nhịp đi cho xã
hội. Từ năm 325, Chúa Nhật và các ngày lễ lớn Công Giáo là những ngày lễ nghỉ
cho cả quốc gia. Kitô Giáo có ảnh hưởng trong pháp chế, nhất là về gia đình.
Chế độ nô lệ chưa bị đặt thành vấn đề nhưng việc giải phóng nó rất dễ dàng, và
có biện pháp chống chia rẽ gia đình người nô lệ, chế độ nhà tù nhân đạo hơn...
Người Công Giáo quan tâm đến vấn đề thành lập các tổ chức từ
thiện. Nhờ các việc đó sau này cơ cấu xã hội cũng sẽ được biến đổi...
II.
SỰ TIẾN TRIỂN CỦA PHỤNG VỤ VÀ TRUYỀN GIÁO
1.
Sự tiến triển của phép rửa tội và giải tội : Sau khi Giáo Hội được tự do, dân
chúng đua nhau nhập Đạo, nhưng
nhiều người lại không muốn tuân giữ những đòi hỏi của phép rửa tội đặt ra, bởi
nó rất khắt khe.
Phép giải tội và việc sám hối : phép giải tội chỉ được thực
hiện một lần trong đời.
Việc sám hối rất nặng nề, đối với những người tội nặng công
khai, có khi phải đền tội kéo dài cả một đời... Sự khắt khe và nặng nề đó, đã
gây ra những hậu qủa ngược lại : nhiều dự tòng không dám rửa tội, xin hoãn lại.
Nhiều hối nhân xin hoãn việc xưng tội, đợi cho đến lúc già hoặc sắp chết...
2.
Thánh lễ, năm phụng vụ và các việc đạo đức : thế kỉ IV đã xác định 2 lễ mừng, ở Đông
Phương, ngày 6 tháng 1 : Lễ Hiển Linh ;
Tây Phương (năm 330) : ngày 25 tháng 12 là Ngày Sinh của Chúa.
Việc tôn kính các vị tử đạo phát triển mạnh. Trên mộ tử đạo,
người ta xây cất các vương cung thánh đường đồ sộ. Nhờ chuộng các thánh tích và
hài cốt mà người ta tìm ra thập giá Chúa Kitô cũng như hài cốt các tông đồ. Và
quan tâm đến các địa danh Kinh Thánh, tổ chức các cuộc hành hương thánh địa,
phong trào sùng kính Đức Maria...
3.
Sự tiến triển của việc truyền giáo
Sau khi đa số dân thành phố đã theo Đạo, các giám mục mở
rộng về nông thôn, thay thế các đền thờ thần ngoại bằng nhà thờ.
Các xứ đạo thành hình, từ năm 313 - 400 : số tòa giám mục
Bắc Ý từ 6 lên 50 tòa, còn tại Galilê từ 22 lên 70 tòa. Bên ngoài đế quốc,
nhiều giáo hội đi vào ổn định.
III.
NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHẾ ĐỘ ĐAN TU
Thánh Antôn được coi là tổ phụ đời đan tu thu hút nhiều người
rời đô thị vào sa mạc. Thánh Pacôm sáng lập lối cộng tu. Thánh Basiliô viết
thành tu luật. Tại Tây Phương cuối thế kỉ IV mới có đời tu. Thánh Augustin nối
kết đời tu linh mục với đan viện, lập tu viện riêng. Thế nhưng, Tổ Phụ Biển Đức
mới tạo thành nếp đan tu ổn định qua nhiều thế kỉ : đan sĩ khấn vĩnh viễn, độc
lập về kinh tế đan viện trở thành những trung tâm từ thiện. Đây là vườn ươm
giáo sĩ, nhiều thế hệ nối tiếp nhau hoàn thành những sự nghiệp lâu dài.
|