Chứng nhân của Lòng Thương Xót: Bài giảng Thánh lễ Dầu 2018 của ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp
31.03.2018
"Cho dù có những người mẹ vì đánh mất nhân tính, đã bỏ rơi những đứa con thơ, thì Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn lặp đi lặp lại: lòng thương xót là một phẩm tính của Thiên Chúa. Trích dẫn câu thời danh của thánh Toma Aquino, ngài xác quyết: 'Thực thi lòng thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó là cách thức đặc biệt để Ngài bày tỏ sự toàn năng của Ngài'. Nói cách khác, đối với Thiên Chúa, việc thực thi lòng thương xót không phải là dấu chỉ của sự bất lực, nhưng chính là biểu hiện của toàn năng, tuyệt đối."
CHỨNG NHÂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT (Lễ Dầu năm 2018)
Từ khắp 23 giáo hạt, trải rộng trên ba tỉnh Nghệ - Tĩnh -
Bình, chúng ta về nơi đây để cử hành Thánh lễ làm phép dầu. Trong Thánh lễ đặc
biệt này, chúng ta kỷ niệm biến cố Đức Kitô được Chúa Cha xức dầu Thánh Thần tấn phong làm
Thượng tế Giao ước mới và chia sẻ chức Tư tế của Ngài cho các Tông đồ, cũng như
cho mỗi người chúng ta. Đây là cơ hội để bày tỏ sự hiệp thông giữa tất cả mọi thành
phần Dân Chúa và cầu nguyện cho các linh mục luôn trung thành vơi sứ vụ của
mình. Theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, đây cũng chính là Thánh lễ tri
ân Thiên Chúa vì lòng thương xót vô biên của Ngài và cầu nguyện cho tất cả các
Kitô hữu, cách riêng các linh mục, trở thành “chứng nhân của lòng thương xót”.
1. Suốt năm năm qua, lòng thương xót đã là đề tài thời thượng
trong giáo huấn mục vụ của Đức Thánh Cha. Theo một số nhà nghiên cứu, lòng thương xót gắn liền với tình mẫu tử. Nó
phải là thuộc tính của chức năng làm mẹ nơi người phụ nữ và biểu hiện rõ nét
qua tình yêu tiên thiên, hiến dâng vô điều kiện của người mẹ đối với đứa con sơ
sinh. Xúc động trước sự mảnh mai yếu đuối của đứa bé, người mẹ âu yếm ôm nó vào
lòng, vuốt ve, che chở, săn sóc và cung cấp tất cả những gì có thể để nó được lớn
lên thành người.
Dựa trên chiết
tự Hy Lạp, người ta thấy hạn từ “lòng thương xót” có liên quan với dạ con, bộ phận đặc biệt của phụ nữ chứa
đựng bào thai khi có mang. Chính vì vậy, không phải vô lý mà nhiều người cho rằng
lòng thương xót là một phẩm tính tự nhiên của người phụ nữ, nó gắn liền với
tình mẫu tử và phát xuất từ sâu thẳm bản chất thiên phú nơi người mẹ. Thật vậy,
người mẹ yêu con với tất cả tấm lòng, bằng một “tình yêu linh thánh”, vô vị lợi,
không so đo, không toan tính. Người mẹ yêu con vì chính người con đó. Chính vì
vậy, thông thường những đứa con yếu đuối, tật nguyền, bất hạnh ... thường lại
được quan tâm, yêu thương, săn sóc nhiều hơn.
Có lẽ chưa bao
giờ người Việt Nam chúng ta phải sống trong một giai đoạn bi thảm về tình người,
về sự trung tín và lòng nhân ái như hiện nay. Trò đời ô trọc, tham lam, bon
chen, lừa đảo của thứ kinh tế thị trường hoang dã đang đẩy con người Việt Nam
vào nhiều hành động mất nhân tính, bạo lực, hận thù, sát nhân . Những cuộc đấu
đá vì lợi ích nhóm, vì quyền lực hay để bảo vệ một thứ chủ nghĩa hão huyền nào
đó ngày càng phơi bày bộ mặt thật thê thảm trong cảnh chợ chiều! Thê thảm nhất
là có nhiều người mẹ trẻ đã đang tâm giết những đứa con vô tội và đẩy Việt Nam
vào một trong ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới!
2. Nhưng cho
dù có những người mẹ vì đánh mất nhân tính, đã bỏ rơi những đứa con thơ, thì
Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn lặp
đi lặp lại: lòng thương xót là một phẩm
tính của Thiên Chúa. Trích dẫn câu thời danh của thánh Toma Aquino, ngài
xác quyết: “Thực thi lòng thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó
là cách thức đặc biệt để Ngài bày
tỏ sự toàn năng của
Ngài". Nói cách khác, đối với Thiên Chúa, việc thực thi lòng thương xót không
phải là dấu chỉ của sự bất lực, nhưng chính là biểu hiện của toàn năng, tuyệt đối.
“Bản tính thương xót của Thiên Chúa được thể hiện cách cụ
thể qua nhiều hành động trong lịch
sử cứu độ, nơi mà lòng nhân hậu của Ngài chiếm ưu thế hơn là
trừng phạt và hủy diệt. Các Thánh
vịnh đặc biệt nhấn mạnh đến sự cao cả nơi hành động của Thiên Chúa: Ngài thứ tha mọi lầm lỗi của ngươi,
Ngài chữa lành tất cả bệnh hoạn của ngươi, Ngài cứu chuộc sự sống ngươi
khỏi huyệt sâu, Ngài vinh thăng ngươi với lòng thương xót và lòng trắc ẩn
(Tv 103,34). Một Thánh vịnh khác còn chứng thực rõ ràng hơn về
những dấu chỉ cụ thể của lòng thương xót: Chúa giải thoát tù nhân, Chúa mở mắt cho kẻ đui mù, Chúa nâng dậy
những người bị áp bức, Chúa yêu thương người công chính, Chúa
bảo vệ khách kiều cư, nâng đỡ cô nhi quả phụ và phá tan lối đi của người
gian ác" (Tv 146,79).
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại không phải
là cái gì trừu tượng, mà là một
thực tại lịch sử, qua đó Ngài tỏ bày tình yêu của Ngài, như tình yêu của một
người cha hay một người mẹ, tan
nát ruột gan vì con cái. Phải nói đây là một tình yêu "thấu tận tâm can".
Cũng chính vì lòng xót thương xót vô biên đó, Thiên Chúa không những đã quên hết
mọi thất trung, vong ân bội nghĩa của con người, mà hơn nữa, còn sai Ngôi Hai
Thiên Chúa giáng trần làm người như mọi
người, ngõ hầu con người được làm con Thiên
Chúa.
Thật vậy, để giải thoát con người, Đấng vô tội đã trở thành tội
nhân, bị tra tấn, phải đội mão gai, phải vác thập giá và chết ô nhục trên thập
giá. Khi suy niệm về cuộc khổ nạn đau thương của Đức Kitô, có thần học gia dám
nghĩ rằng, xem ra vì quá xót thương nhân loại lỗi lầm, mà Thiên Chúa đã đối xử
quá nghiệt ngã và hầu như bỏ rơi Con của Ngài! Phải chăng vì triệt để quên hết
tội lỗi trần gian, Thiên Chúa ra như đã quên luôn tình trạng thê lương của Đức
Kitô? Khi đã cảm nghiệm tận cùng nỗi cô đơn, nhục nhã và thống khổ, Đức Kitô
kêu lớn: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa
của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Đáp lại tiếng kêu thất thanh đó,
chỉ là im lặng sâu thẳm và nhiệm mầu!
3. Đức Giêsu Kitô chính là
dung mạo lòng thương xót của Thiên Chúa,
Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết như thế trong Tông sắc “Dung mạo lòng thương
xót”. Do đó, Đức Kitô cũng đã bày tỏ quyền năng của mình qua thái độ yêu thương,
khoan dung, tha thứ, nhẫn nhục, xót thương. Nơi Ngài, lòng thương xót đã trở
nên sống động, hữu hình và đạt đến tột đỉnh.
Theo bài Tin Mừng hôm nay (Lc 16-21), khi trở về thăm quê
hương Nazareth, Đức Giêsu được mời đọc Sách Thánh. Ngài mở sách ngôn sứ Isaia
chương 61 và đọc hai câu đầu. Nhưng câu 2, Ngài chỉ đọc dòng đầu để “công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”, rồi
tự ý bỏ dòng kế tiếp nói về “ngày báo oán
của Thiên Chúa”. Tại sao Ngài chủ ý không đọc đoạn đó? Phải chăng quyết định
này tự nó đã hàm chứa chủ đích đề cao lòng thương xót của Tân Ước và giảm nhẹ đề
tài báo thù trong Cựu Ước?
Lần giở các trang Tân Ước, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa của Đức
Kitô được biểu hiện nơi người cha nhân lành, ngày ngày ra trước cửa ngóng trông
đứa con hoang đàng trở về và khi vừa thấy bóng dáng nó từ đàng xa, đã vội vàng chạy
đến ôm chầm lấy nó. Thế rồi, mừng mừng tủi tủi, quên tất cả câu chuyện buồn quá
khứ, vội vã mở tiệc liên hoan mừng ngày hội ngộ.
Đức Kitô là thế đó. Ngài
đã quên quá khứ và nghề nghiệp của Lêvi, để chỉ nhìn trừng trừng vào mắt
ông, cái nhìn thấu tận tâm can, rồi nói: Hãy
theo tôi. Ông ta vội vàng đứng dậy đi theo Ngài.
Ngài cũng quên quá khứ của Madalêna, một
cô gái làng chơi khét tiếng
trong vùng, khi những giọt nước mắt thống hối của cô lăn trên đôi
chân lữ hành, vất vả ngược xuôi của Ngài trên những quãng đường gập ghềnh sỏi
đá của xứ Galilê.
Ngài đã quên tội tày trời của một phụ nữ bị bắt
quả tang đang ngoại tình, mà lại nhìn thẳng vào những khuôn mặt hằm hằm sát khí
và những cánh tay đang vung lên sẵn sàng ném đá giết chết chị ta, rồi Ngài ôn tồn
nói: ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi. Khi tất
cả mọi người đã bỏ đi, Ngài dịu dàng nói: Tôi cũng không lên án chị đâu!
Thôi, chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!
Ngài đã quên, đã quên hết
cuộc đời “đầu trộm
đuôi cướp” của tên tử tù cùng chịu đóng đinh bên cạnh, khi ông nhận ra Ngài là
ai, và hứa hạnh phúc thiên đàng cho lòng thành đó “ngay hôm nay”.
Ngài đã quên thái độ đằng
đằng sát khí của Phaolô khi tự nguyện đi Damasco để bắt bớ các Kitô hữu
đầu tiên của Ngài và sẵn sàng sử dụng lòng nhiệ thành của ông để loan báo Tin Mừng.
Ngài đã quên, đã quên hết sự phản bội hèn
nhát của Tông đồ trưởng Phêrô, vì những giọt nước mắt
thống hối của ông và đã tái khẳng định sự tín nhiệm của Ngài nơi ông, khi
trao cho ông trách nhiệm chăm sóc Giáo Hội
và củng cố niềm tin của các môn đệ Ngài.
Thiên Chúa là thế đó! và Đức Kitô cũng là thế đó!: Đấng nhân hậu
và từ bi, hay nén giận, giàu xót thương và thành tín.
4. Trong Lễ Dầu năm nay, chúng ta, đại diện các thành phần Dân
Chúa trải rộng trên khắp giáo phận, hiện diện ở đây để tri ân Chúa về lòng
thương xót và tình yêu hải hà. Thật sự, nếu Chúa không quên những lỗi lầm, khuyết
điểm của chúng ta và không quảng đại khoan dung, thứ tha thì thử hỏi mấy ai
trong chúng ta được làm môn đệ của Ngài. Hồ dễ có ai xứng đáng lãnh nhận sứ vụ
giám mục, linh mục, chủng sinh, tu sĩ, hành giáo… ?
Tuy nhiên, chắc chắn có một điều không những Chúa không quên,
mà Ngài còn luôn nhắc đi nhắc lại: đó là sứ vụ loan báo Tin Mừng. Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ
(Mt 28,19). Trong mệnh lệnh trên, chúng ta cần đặc biệt lưu ý hai động từ và
cũng là hai mệnh lệnh gắn liền nhau, hỗ trợ nhau, nhưng không thay thế nhau: ra đi và loan báo Tin Mừng.
Ngày xưa cũng như hôm nay, mệnh lệnh của Chúa đòi hỏi chúng ta
phải can đảm lên đường đi tìm những con chiên lạc, tiếp cận với các anh chị em
nghèo đói, bệnh tật, khổ đau…, đối thoại với những người chưa tin, khác niềm
tin hay không còn niềm tin. Thành công của anh chị em Tin Lành ở mấy tỉnh Tây Bắc
Việt Nam cũng như kinh nghiệm loan báo Tin Mừng của một số linh mục ở trong
cũng ngoài giáo phận Vinh, luôn luôn là một lời mời gọi và nhắc nhở chúng ta về
cách thế thực hiện sứ vụ cốt yếu này.
Trong ngày kỷ niệm biến cố chúng ta được Đức Kitô cho chia sẻ
chức tư tế của Ngài, được xức dầu và được sai đi để làm cho mọi người thành môn
đệ của Ngài, xin Thiên Chúa cho chúng ta trở nên “Thừa tác viên của lòng thương xót” đối với mọi người, thuộc mọi môi trường xã hội
và trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Amen.
+ GM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, O.P.
|