GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


Xem tiếp...
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 24
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 024
 Lượt tr.cập 055578507
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Chuyên mục » Tài liệu, sÆ°u khảo 28.04.2024
Dân số và sự sống con người (1) : Dân số và những hệ lụy
11.08.2008

Xem hình
Dẫn nhập

Con người ngày nay đang đối diện với nhiều vấn đề nan giải, một trong những vấn đề đó là dân số. Vấn đề tăng giảm dân số của thế giới đang đặt con người trước những lo lắng. Họ đang cố gắng tìm những biện pháp mạnh để hạn chế sinh sản ngõ hầu giúp nhân loại phát triển cũng như có đủ những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống sung túc hơn.

Những thay đổi về cơ cấu dân số tự nhiên trong những thập niên vừa qua cho chúng ta thấy rõ những mặt yếu kém do những chính sách kế hoạch hóa gia đình không phù hợp với luân lý và trật tự tự nhiên. Điều này sẽ ảnh hưởng lên nhiều lĩnh vực của cuộc sống con người. Rồi đây, con người sẽ khó lường hết những tác động xấu do những chính sách dân số đó gây ra. Thực tế cho chung ta biết dân số không phải là nguyên nhân chính gây ra đói khát hay thiếu thốn lương thực cho nhân loại mà là những vấn đề khác.

Con người là một thụ tạo thượng đẳng được Thiên Chúa dựng nên vì chính mình. Tuy nhiên, do những quan niệm lệch lạc, cái hình ảnh Thiên Chúa đang bị tổn thương nghiêm trọng. Trong thời hiện đại, với những tiến bộ của khoa học, đời sống con người đã được thăng tiến về nhiều mặt; nhưng bên cạnh đó, con người cũng phải chịu những tác hại do chính ý thức và lòng ích kỷ của con người gây nên. Con người đang cố gắng đi tìm những phương thức thay đổi cuộc sống, nhưng lắm lúc con người lại sử dụng những phương thức đó để chống lại sự sống và phẩm giá của mình. Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt phân tích đề tài “chính sách dân số và sự sống con người” qua các mục: Dân số và những hệ lụy (1), sự sống con người (2), những nguy cơ ảnh hưởng đến sự sống con người (3), và Giáo Hội Công Giáo với vấn đề dân số và sự sống của con người (4) để hiểu rõ những mặt tích cực và tiêu cực của chính sách dân số và những nguy cơ của nó đối với nhân vị sự sống.

1. Dân số và những hệ lụy

1.1. Dân số tăng

Dân số thế giới đã và đang không ngừng gia tăng. Việc gia tăng dân số đặt ra cho các tổ chức, các nhà hữu trách và các quốc gia nhiều vấn đề xã hội nan giải, không dễ gì giải quyết một cách nhanh chóng và ổn thỏa trong một sớm một chiều. Người ta cho rằng yếu tố dân số ảnh hưởng rất lớn đến sự hưng thịnh và tồn vong của một nền kinh tế. Điều này thì ai ai cũng có thể nhận ra. Dân số đã từng là nỗi ám ảnh của rất nhiều quốc gia trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX. Từ thập niên năm mươi cho đến thập niên chín mươi của thế kỷ XX, người ta lo tìm mọi cách để hạn chế sinh sản, hầu giúp con người thoát khỏi cảnh nghèo nàn và lạc hậu. Tỷ suất sinh sản của một đất nước có ảnh hưởng đến mức sống của người dân nước đó. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thì với đà tăng như hiện nay thì đến năm 2050, dân số thế giới sẽ đạt tới 9,1 tỷ người, tăng lên 40% so với số dân hiện tại là 6,5 tỷ người [1]. Dân số tại các nước đang phát triển sẽ tiếp tục bùng nổ, còn tại các nước đã phát triển sẽ giữ mức 1,2 tỷ người [2]. Với tốc độ gia tăng như hiện nay thì đến năm 2030, Ấn Độ sẽ vượt lên trên Trung Quốc để trở thành nước có số dân đông nhất thế giới. Trong vòng năm mươi năm qua, thế giới đã nỗ lực để kìm hãm sự gia tăng dân số, nhưng dân số vẫn không ngừng tăng lên [3]. Việc gia tăng dân số sẽ kéo theo một số hậu quả có ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người.

1.1.1. Tình trạng đói nghèo

Má»™t thá»±c tế mà ai cÅ©ng thấy được là nÆ°á»›c nào có tá»· lệ tăng dân số nhanh thì nÆ°á»›c đó không tránh khỏi cái đói nghèo. Cái đói nghèo hình nhÆ° là tá»· lệ thuận vá»›i việc tăng dân số, nÆ°á»›c nào càng nghèo thì dân số tăng càng nhanh và mạnh; và nÆ°á»›c nào càng có tá»· lệ tăng dân số cao thì lại càng thêm đói nghèo. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, đến năm 2050, dân số của năm mÆ°Æ¡i nÆ°á»›c nghèo nhất thế giá»›i sẽ tăng lên gấp đôi, trong đó Afganistan, Chad và Đông Timor sẽ tăng lên gấp ba [4]. Cho đến đầu thế ká»· XXI, Châu Phi vẫn là châu lục có tá»· lệ tăng dân số cao nhất và cÅ©ng là nÆ¡i đói nghèo nhất, tuổi thọ của người dân giảm xuống rất nhanh từ 62 tuổi vào năm 1995 xuống thấp còn 48 tuổi trong giai Ä‘oạn 2000-2005 [5], có số người bị nhiá»…m HIV/AIDS cao nhất thế giá»›i vá»›i đà lây lan rất nhanh [6].  

Theo báo cáo của FAO, tình trạng nghèo đói trên thế giá»›i Ä‘ang có khuynh hÆ°á»›ng gia tăng. Hiện nay, trên thế giá»›i có khoảng 842 triệu người bị đói, trong đó chủ yếu là tại các nÆ°á»›c Ä‘ang phát triển và nhất là ở Trung và Tây Phi [7]. CÅ©ng theo tổ chức này, tình trạng thiếu lÆ°Æ¡ng thá»±c sẽ ngày càng trầm trọng hÆ¡n [8].  

1.1.2. Tình trạng bất công

Cái đói nghèo thường kéo theo nhiều vấn đề xã hội khác, nhất là vấn đề bất công. Đúng là “bần cùng” thường “sinh đạo tặc”. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì chúng ta thấy được rất rõ rằng nơi nào đói nghèo thì nơi đó thường có nhiều bất công, nước nào càng nghèo thì nước đó càng có nhiều tham nhũng, bạo lực và trộm cướp [9]. Những nước nghèo thì chính quyền không đáp ứng những nhu cầu bức thiết và công cộng của người dân. Các quyền căn bản của con người khó được đảm bảo: học hành, đi lại, tiền công, y tế… do đó sẽ nảy sinh nhiều vấn đề bất ổn trong xã hội.

1.1.3. Mù chữ

Hậu quả của đói nghèo thường là nạn mù chữ. Đã nghèo thì lấy tiền đâu ra mà học hành. Và không biết chữ thì khó mà thoát khỏi cái cảnh đói nghèo. Do đó, cái nghèo với nạn mù chữ sẽ làm cho đời sống con người ngày càng bi thảm, không có lối thoát. Mặc dù trong những năm gần đây, người ta đã cố gắng hết sức để phổ cập giáo dục, nhưng con số người mù chữ đang ở mức rất cao với 600 triệu phụ nữ và 320 triệu đàn ông [10]. Những người không biết chữ nghĩa và nghèo đói thường là những người thiệt thòi nhất, họ không được tiếp xúc với những thành quả của khoa học kỹ thuật, không được hưởng dùng những tiện nghi của thời đại, không được tiếp xúc với tri thức và văn minh của nhân loại.

1.2. Dân số giảm

Châu Á và Châu Phi có tỷ lệ tăng dân số nhanh, thì ngược lại dân số các nước Châu Âu lại giảm xuống đáng báo động. Cái điều mà các nước Tây Âu lo lắng không phải là sự gia tăng dân số, sự nghèo đói và nạn mù chữ, nhưng là vấn đề giảm dân số. Việc tăng dân số là nguyên nhân của nhiều vấn đề, ngược lại, việc giảm dân số cũng là nguyên nhân của nhiều vấn đề xã hội khác. Với cái đà giảm dân số như hiện nay tại các nước Châu Âu, thì không biết 20, 30 năm nữa lục địa này sẽ như thế nào. Đây đang là bài toán nan giải đối với các nước Châu Âu.

Việc dân số giảm chắc chắn có liên quan đến tình trạng lão hóa, lao động và các vấn đề an sinh khác: "Những thay đổi về mức tăng trưởng dân số đã đặt ra nhiều câu hỏi trong giới các chuyên gia. Ví dụ, làm cách nào các nước công nghiệp hóa có thể đáp ứng nhu cầu của các thành phần dân số đang già nua tại các nước này, đặc biệt trong điều kiện số người trong độ tuổi làm việc lại giảm bớt?” [11]

“Điều ngạc nhiên là các nước ít phát triển hơn cũng đi theo xu hướng này. Với tỷ lệ sinh là 1,3 đứa trẻ mỗi phụ nữ, Nhật Bản sẽ mất 1/4 trong số 127 triệu dân trong 4 thập kỷ tới. Và khi tỷ lệ sinh ở Trung Quốc đã giảm từ 5,8 năm 1970 xuống còn 1,8 hiện nay, một thế hệ dân số Trung Quốc sẽ già đi. Dự kiến đến năm 2015, dân số Trung Quốc sẽ già hơn nước Mỹ (tính từ tuổi 44). Vào năm 2019 hoặc sau đó, dân số Trung Quốc sẽ lên đến đỉnh là 1,5 tỷ và sau đó sẽ giảm mạnh. Đến giữa thế kỷ này, Trung Quốc có thể mất 20-30% dân số mỗi thế hệ.” [12]

Điều đáng nói là càng nghèo thì người ta đẻ càng nhiều, nhưng ngược lại, càng giàu thì người ta lại ngại sinh đẻ và có đẻ nữa thì cũng rất ít. [13]

1.2.1. Tuổi già

Trong vài thập niên gần đây, ở các nÆ°á»›c Châu Âu, người ta chỉ thấy có nhiều người già, nhiều người về hÆ°u. Những người già này về hÆ°u thì trách nhiệm xã há»™i cÅ©ng không phải là nhỏ: phải lo nÆ¡i ăn chốn ở, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác. Và có lẽ cái đáng sợ nhất đối vá»›i thế hệ tuổi già ở các nÆ°á»›c Châu Âu là thiếu những người trẻ nối nghiệp, thiếu con cháu chăm sóc [14]. Từ chá»— đó, rất nhiều người già cảm thấy cô Ä‘Æ¡n khủng khiếp. Cái cô Ä‘Æ¡n đó đã làm cho đất nÆ°á»›c già nua, trì trệ. Chán nản, có người tìm đến vá»›i rượu bia hay quậy phá, thậm chí Ä‘i lang thang ngoài đường ngoài phố. Hậu quả là mấy mùa hè gần đây, nhÆ° ở Pháp có rất nhiều người già chết cô Ä‘Æ¡n trong cảnh bị bỏ quên ngoài đường phố [15].  Tình trạng lão hóa dân số không chỉ xảy ra ở Châu Âu, rồi đây, Châu Á cÅ©ng sẽ phải đối diện vá»›i thá»±c tế mà Châu Âu Ä‘ang phải đối phó [16].

Theo tiến sĩ Lucy Boyd, Viện Nghiên cứu Ung thư của Anh, việc dân số ngày càng già nua sẽ làm nảy sinh ra nhiều căn bệnh như ung thư phổi, vú, dạ dày, gan, ruột, tiền liệt tuyến, cổ tử cung và thực quản. Trong vòng 30 năm gần đây tỷ lệ người mắc ung thư vú và phổi đã tăng gấp đôi. Sự thay đổi dân số thế giới là nguyên nhân chính khiến nhiều người mắc những căn bệnh vừa nêu [17].

1.2.2. Thiếu lao động

Ở những đất nước có tỷ lệ sinh đẻ thấp thì người già ngày càng nhiều, trong khi đó người trẻ lại thiếu vắng. Khi những người làm về hưu mà không có người trẻ để nối nghiệp thì công ty xí nghiệp dần dần phải đóng cửa vì thiếu nhân công, hoặc là phải thuê lao động đắt tiền. Các nước Châu Âu và các nước công nghiệp phát triển đang đối diện với một thực tế mà họ không muốn, đó là nạn thiếu nhân công lao động [18]. Việc thiếu lao động trong nước đang làm cho đất nước chậm phát. Hầu như không có quốc gia nào hài lòng về một nền kinh tế chậm phát triển. Vì thế, các nước Châu Âu phải nhập khẩu lao động từ nước ngoài để duy trì phát triển kinh tế ít ra là ở mức ổn định [19]. Để giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến việc giảm dân số, các nước Châu Âu đã ý thức được việc phải khẩn trương thực hiện chính sách dân số cho phù hợp [20].

“Nền dân chủ xã hội sẽ không bền vững được nếu không có những người lao động là nguồn kinh phí cho nó. Lý do sâu xa của cái nhìn bi quan về Âu Châu là ở đây. Sinh suất giảm sút có nghĩa là tỉ suất người lao động trên người hưu trí (người trên 60 tuổi) sẽ còn tệ hơn con số 5:1 hiện nay để tụt xuống dưới 2:1 vào năm 2050. Nói như Mark Leonard của Open Society Initiative for Europe: ‘Viễn tượng kinh sợ nhất là một nền kinh tế Châu Âu ngày càng rỗng tuếch với một con số khổng lồ người hưu trí sống bám vào một lực lượng lao động ngày càng ít đi’.” [21]

Lực lượng lao động trên thế giới được phân bổ không đồng đều nơi thì thừa nơi lại thiếu. Các nước Á Phi thì thừa, trong khi đó, các nước phát triển như Mỹ và Tây Âu lại phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động, lao động già nua. [22]

Khi lá»±c lượng lao Ä‘á»™ng thiếu thì người ta buá»™c phải tăng tuổi nghỉ hÆ°u lên, đó là  Ä‘iều đối nghịch vá»›i sá»± tiến bá»™ của thời đại. Trả lời phỏng vấn, giáo sÆ° Gary Becker, người đã từng được giải Nobel, nói: “Má»™t Ä‘iều không thể chối cãi là sá»± giảm sút về dân số là má»™t gánh nặng đối vá»›i hệ thống xã há»™i. Vì thế người ta buá»™c phải tăng tuổi nghỉ hÆ°u. Nhật bản đã thá»±c hiện Ä‘iều đó, ở Nhật tuổi nghỉ hÆ°u bình quân ở đàn ông là 68.” [23]

1.2.3. Nguy cơ tuyệt chủng

Mối bận tâm lớn nhất đối với người dân Châu Âu là vấn đề dân số. Người ta đang lo sợ là những người da trắng có nguy cơ sẽ trở thành thiểu số tại lục địa này khi ngày càng có nhiều người da màu, nhất là từ Châu Phi nhập cư vào vùng đất han khiếm lực lượng lao động. Những người nhập cư là cơ hội cho các nước Tây Âu giữ vững tốc độ phát triển kinh tế, nhưng lại làm cho người da trắng lo sợ. Số người da trắng đang dần dần già nua, ít sinh con và thậm chí không muốn sinh con nữa thì nguy cơ giống nòi da trắng sẽ trở thành nhóm thiểu số tại lục địa này. Giáo sư Gary Becker đã phát biểu khi trả lời phỏng vấn rằng: “Nếu tỷ lệ sinh đẻ giữ nguyên như hiện nay thì một dân tộc như dân tộc Italia sau năm đến sáu thế hệ sẽ bị tiêu biến" [24]. Nỗi lo tuyệt chủng đang thôi thúc các chính phủ tại các nước giàu có này khuyến khích dân chúng sinh con, ai sinh nhiều con sẽ được chính phủ đài thọ mọi mặt. Dù chính phủ khuyến khích và dành nhiều ưu đãi cho những người sinh con và có nhiều con nhưng người ta vẫn không muốn có con. Trong khi đó, ở các nước Châu Âu, người dân có dòng máu từ Á và Phi đang sinh con ngày càng nhiều. Những năm gần đây, tại Pháp và một số nước Tây Âu đang có khuynh hướng trục xuất người nhập cư, một mặt là sợ người da màu rồi đây sẽ đứng lên thống trị người da trắng, mặt khác, sợ những người da màu rồi đây sẽ trở nên đông đúc và nắm trong tay mọi nguồn lực kinh tế [25].

1.3. Chính sách dân số

Điểm qua thông tin về tình hình dân số thế giá»›i thì chúng ta thấy rõ là không đồng đều. Có nhiều nghịch lý trong vấn đề kìm hãm, khuyến khích tăng giảm dân số. NÆ¡i thì sợ dân số bùng nổ, nÆ¡i thì lại sợ dân số già nua. NÆ¡i này thì hạn chế sinh sản bằng những biện pháp cứng rắn; nÆ¡i khác thì lại khuyến khích sinh đẻ vá»›i nhiều Æ°u đãi. Chúng ta có thể nói rằng những chính sách dân số không phù hợp sẽ ảnh hưởng đến tình hình chung của toàn thể thế giá»›i và tÆ°Æ¡ng lai của cả nhân loại. Các nhà lãnh đạo các nÆ°á»›c phải lo lắng để đáp ứng nhu cầu lÆ°Æ¡ng thá»±c của người dân. Người ta lo sợ rằng vá»›i cái đà tăng dân số nhÆ° những thập niên gần đây, thì không biết thế giá»›i này có đủ chá»— cho con người ở không, thế giá»›i có sản xuất đủ lÆ°Æ¡ng thá»±c cho hàng tá»· miệng ăn không. Những lo lắng của con người trÆ°á»›c vấn đề gia tăng dân số không phải là không có cÆ¡ sở, nhÆ°ng những cÆ¡ sở đó đến nay không vững chắc. Cho đến hôm nay, vá»›i sá»± tiến bá»™ của khoa học kỹ thuật, vấn đề lÆ°Æ¡ng thá»±c không còn là vấn đề đáng lo lắng nữa [26].  Vấn đề hôm nay Ä‘ang làm con người bận tâm là ý thức của má»—i người đối vá»›i vận mệnh của đất nÆ°á»›c mình, vá»›i tÆ°Æ¡ng lai của nhân loại. Sá»± đói khát không phải là do thiếu lÆ°Æ¡ng thá»±c nhÆ°ng là do phân bổ không đồng đều [27].  

1.3.1. Bắt buộc

Trong cuá»™c sống vẫn có những nghịch lý mà nhiều lúc chúng ta không thể hiểu được. Về chính sách dân số, thì không hẳn là không hiểu được, cái nghịch lý đó có thể được lý giải khi phân tích tỉ mỉ những khía cạnh của dân số. Sá»± chênh lệch về dân số có liên quan đến các vấn đề khác nhÆ° văn hóa, thể chế chính trị và chiến lược phát triển kinh tế. Sá»± gia tăng dân số nhanh chóng làm cho các quốc gia phải lo lắng, nếu không muốn đối diện vá»›i các vấn đề xã há»™i khác, thì phải hành Ä‘á»™ng ngay bằng kế hoạch hóa gia đình. NhÆ°ng việc hạn chế sinh sản vá»›i những biện pháp bất hợp lý và vô luân thì lại gây hậu quả nghiêm trọng cho sá»± ổn định của thế giá»›i. Thông thường, những nÆ¡i nào mà người ta muốn có đông con thì những biện pháp nhẹ không Ä‘i đến đâu cả, do đó nhà nÆ°á»›c phải dùng biện pháp mạnh. Biện pháp hạn chế sinh sản ở Việt Nam không nghiêm ngặt nhÆ° ở Trung Quốc, nhÆ°ng ngay bây giờ đã có những vấn đề nảy sinh từ biện pháp đó, chúng ta thấy rõ là sá»± chênh lệch giá»›i tính ở trẻ sÆ¡ sinh đã đến mức báo Ä‘á»™ng [28]. Rồi đây, vá»›i sá»± chênh lệch này, sẽ nảy sinh bao nhiêu vấn đề nhức nhối khác [29].  

1.3.2. Khuyến khích

Ở trên chúng ta thấy được một số hạn chế trong việc làm chậm tốc độ gia tăng dân số bằng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình không thích đáng. Những nơi người ta không muốn có con thì nhà nước lại khuyến khích. Dù khuyến khích thì người ta vẫn không muốn sinh thêm con cái [30]. Tỉ suất sinh sản tự nhiên không đồng đều sẽ ảnh hưởng đến nhiều lãnh vực khác của đời sống không chỉ là một quốc gia mà là cả hoàn cầu.

Hầu như các nước Châu Âu đều khuyến khích người dân sinh con thêm, nhưng người dân lại không đáp ứng lời kêu gọi của các chính phủ mặc dù chính phủ có những chính sách rất ưu đãi cho những người sinh con [31]. Việc dân số sút giảm được ví như một thảm họa khủng khiếp. Sau năm 2050, dân số thế giới sẽ giảm mạnh ở các nước đang phát triển hơn là quốc gia phát triển [32]. Người ta đã chẳng lạ gì với xu hướng dân số ở Châu Âu, nơi mà tỷ lệ sinh đã giảm từ nhiều năm nay. Đứng trước việc giảm dân số, thiếu lao động, tổng thống Nga đã gọi tình trạng này là "khủng hoảng quốc gia" [33].

Tình trạng này cÅ©ng sẽ diá»…n ra vá»›i các nÆ°á»›c Châu Á khác mặc dù họ không hề áp dụng các chÆ°Æ¡ng trình hạn chế sinh đẻ nghiêm nhặt nhÆ° Trung Quốc. Nhà xã há»™i học Ben Wattenberg đã nói rằng: "ChÆ°a bao giờ trong suốt 650 năm qua, tá»· lệ sinh đẻ lại giảm nhiều nhÆ° vậy, nhanh đến nhÆ° vậy, dài đến nhÆ° vậy và ở nhiều nÆ¡i đến vậy" [34]. Ông gọi hiện tượng giảm dân số này là “trận tsunami của dân số” [35].  

1.3.3. Trào lưu mới

Các quốc gia thường có những chính sách vĩ mô đối với vấn đề dân số. Còn đối với người dân thì lại không tính đến những khía cạnh xã hội của việc tăng hay giảm dân số. Những người nghèo thường sinh đẻ nhiều, trong khi đó người giàu có điều kiện lại sinh đẻ ít. Xét một bình diện nào đó, việc sinh nhiều hay ít còn phụ thuộc vào tâm thức của con người ở mỗi nền văn hóa. Có nơi, người ta quan niệm con cái là phúc lộc trời ban; nhưng có nơi, người ta lại cho rằng con cái là một gắng nặng cho bản thân. Để thảnh thơi, người ta trút bỏ gánh nặng đi bằng cách không sinh con hoặc sinh con ít. Lối sống công nghiệp hóa và đô thị hóa cũng sẽ tác động lên việc giảm dân số:

“Con người ở khắp mọi nơi hiện đang đổ về các thành phố và dự đoán đến năm 2007, một nửa dân số thế giới sẽ sống ở thành phố. Chi phí để nuôi một đứa trẻ ở thành phố rất đất đỏ. Từ năm 1970-2000, dân số đô thị ở Nigeria đã tăng từ 14% lên 44%, Hàn Quốc tăng từ 28% lên 84%. Chính vì vậy, song song với dân số thành thị tăng là tỷ lệ sinh giảm.” [36]

Chủ nghĩa thực dụng và tự do đang ảnh hưởng rất lớn lên suy nghĩ của nhiều người nhất là những người trẻ. Khi những khuynh hướng này đi vào nếp nghĩ của người ta thì người ta sẽ sống ích kỷ hơn, khép mình hơn và không muốn vướng bận về chuyện sinh nặng đẻ đau và cực nhọc nuôi dưỡng con cái, thay vào đó là thích thư thả, du lịch… Hiện nay, có một số quốc gia dùng những chính sách hạn chế sinh sản cứng rắn, nhưng rồi đây, dù có khuyến khích thì người ta cũng không thích lập gia đình và không thích có con cái. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác nữa làm cho dân số thế giới giảm là:

“Nguyên nhân khác là công việc. Số lượng phụ nữ biết chữ và đi học đã làm giảm tỷ lệ sinh. Ngoài ra còn là tình trạng ly hôn, phá thai, kết hôn muộn. Các biện pháp tránh thai đã tăng đáng kể 1 thập kỷ qua. Theo số liệu của LHQ, 62% phụ nữ kết hôn hoặc sống cùng đàn ông nhưng khong kết hôn trong độ tuổi sinh đẻ đang sử dụng các biện pháp tránh thai. Ở những nước như Ấn Độ, căn bệnh HIV lại là nguyên nhân giảm dân số. Tại Nga, vì tỷ lệ nghiện rượu, sức khỏe yếu và ô nhiễm công nghiệp cao nên việc sinh con khó khăn hơn. Sự giầu có đang làm giảm nhiệt tình đối với việc sinh nở, chính vì vậy mà Wattenberg cho rằng: ‘Chủ nghĩa tư bản là biện pháp tránh thai tốt nhất’.” [37]

1.4. Những nguy cơ của chính sách dân số khắc nghiệt

Kể từ khi người ta sản xuất được viên thuốc tránh thai (1958), chế tạo ra được những phương pháp tránh thai để áp dụng vào việc kế hoạch hóa gia đình cho đến nay, người ta đã thấy được một số hậu quả có ảnh hưởng không nhỏ lên đời sống con người, nhất là những người nữ. Có nhiều nguy cơ sinh học sẽ ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống của các bà mẹ và các đứa trẻ được sinh ra nếu cứ sử dụng thường xuyên các loại thuốc ngừa thai, các phương pháp phá thai, và cứ sử dụng hoài và không đúng cách thì phụ nữ có nguy cơ vô sinh, ung thu vú, tử cung…[38]

“Do chính sách má»™t con và tÆ° tưởng thích có con trai nối dõi nên nhiều cặp vợ chồng Trung Quốc đã tìm mọi cách để bảo đảm rằng đứa con sinh ra sẽ là trai. Má»™t số bậc phụ huynh đã trả tiền để được siêu âm giá»›i tính thai nhi bất hợp pháp và nạo phá thai nếu đó là thai nữ.”  [39]

1.4.1. Chênh lệch giới tính

Các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, các chính sách hạn chế sinh sản đã làm cho tá»· lệ nam nữ không bình thường. Tại các nÆ°á»›c có chính sách hạn chế sinh sản, chúng ta đều thấy rõ sá»± chênh lệch giá»›i tính. Số nam sinh ra thường ít hÆ¡n nữ, nhÆ°ng tại những nÆ¡i có biện pháp kế hoạch hóa gia đình, số trẻ nam được sinh ra lại nhiều hÆ¡n nữ. Sá»± chênh lệch càng lá»›n hÆ¡n tại những nÆ°á»›c có nền văn hóa chịu ảnh hưởng của tÆ° tưởng trọng nam khinh nữ, nhất là các nÆ°á»›c Châu Á [40]. Vá»›i quan niệm trọng nam khinh nữ, cùng vá»›i biện pháp siêu âm để biết thai nhi là nam hay là nữ, khi người ta biết được là nữ thì người ta bỏ Ä‘i, còn nam thì giữ lại. Cái Ä‘iều này đã làm cho sá»± chênh lệch giá»›i tính ngày càng cao, nhất là tại Trung Hoa [41].  

Người ta rất lo ngại về sá»± tác Ä‘á»™ng xấu của chính sách kế hoạch hóa gia đình ở Trung Quốc đối vá»›i tệ nạn buôn người. Ông Steven Law, thứ trưởng lao Ä‘á»™ng Mỹ, cho biết trong số khoảng 600-800 ngàn người bị mua bán ra nÆ°á»›c ngoài trên toàn thế giá»›i có đến 250 ngàn nạn nhân là ở Trung Quốc. Sá»± mất quân bình giá»›i tính ở Trung Quốc là do chính sách má»™t con. Chính sách này là má»™t trong những nguyên do gây ra tình trạng này [42].  

Từ sự chênh lệch này sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đền xã hội nhức nhối. Việt Nam đang đứng trong tình trạng báo động về sự chênh lệch giới tính. Tỷ lệ là 100 gái/120 trai. Theo Nguyễn Bá Thủy, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, trong quý I năm nay, có 338.000 bé được sinh ra thì có khoảng 154.400 bé gái và 183.700 bé trai. Năm 2006, tỷ lệ này là 100 gái/110 trai, tương đương với Trung Quốc những năm 1988-1990, khi đất nước này bước vào giai đoạn mất cân bằng giới tính [43]. Mức chênh lệch này không đồng đều, mỗi nơi mỗi khác. “Tại thời điểm 2005, Hòa Bình có tỷ lệ 100 gái/111 trai; Tuyên Quang là 100/112; Phú Thọ 100/111; Thái Nguyên 100/112; Phú Yên 100/116…[44]

Sự mất cân bằng giới tính ở trẻ mới sinh là một trong những mặt trái của việc thực hiện chính sách kiểm soát sinh đẻ. Tình trạng này thường xuất hiện ở những nước có chính sách hạn chế sinh đẻ khắc nghiệt, chẳng hạn như ở Trung Quốc. Ở Việt Nam, các tỉnh có sự chênh lệch cao cũng là những địa phương thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình. Và hình như, nơi nào người ta thực hiện chính sách tốt thì nơi đấy sự chênh lệch giới tính càng cao. [45]

1.4.2. Những vấn đề xã hội

Từ việc chênh lệch giới tính quá lớn, một số rất lớn đàn ông không tìm được vợ, nhất là những người nghèo và ít học. Điều này không chỉ là vấn đề của bản thân người không cưới được vợ mà là một gánh nặng cho toàn xã hội. Khi người đàn ông sống trong sự kìm nén, không được thỏa mãn nhu cầu sinh lý, thì sẽ gây ra nhiều vấn đề xã hội khác: nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em, nô lệ tình dục, sinh hoạt tình dục bừa bãi… sẽ có nhiều người bị bệnh tâm lý, bệnh tâm thần và các căn bệnh khác liên quan đến tình dục. Ở Trung Quốc, số đàn ông rất lớn không thể lấy được vợ. Từ nhu cầu giải quyết sinh lý của những người này, nhiều băng đảng đã cấu kết buôn bán phụ nữ. Gần đây, nhiều cô gái Việt lấy chồng ở Đài Loan, cứ tưởng là sang đó được hạnh phúc, đổi đời, ai ngờ sang đó làm vợ cho nhiều người trong một gia đình. Nhiều phụ nữ Việt đã bị lừa bán ra nước ngoài cho những chủ chứa. Việc mất thăng bằng về giới tính không phải là chuyện nhỏ. Một đại diện của Việt Nam tại UNPFA có văn phòng ở Hà Nội cho biết: “Hệ quả của tình trạng mất cân bằng về giới tính đã và đang xảy ra tại các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Họ phải nhập khẩu các cô dâu, nhiều người trong số này là từ Việt Nam. Tôi không biết Việt Nam sẽ nhập khẩu cô dâu từ đâu nếu chuyện tương tự xảy ra tại đây trong 10 hoặc 15 năm tới”. [46]

Christophe Guilmoto nói: “Khó có thể tưởng tượng ảnh hưởng chính xác của việc thiếu phụ nữ trong 20 năm tới. Không một xã hội loài người nào mà chúng ta biết lại phải đối mặt với vấn đề tương tự”. [47]

Nguyá»…n Bá Thủy cho biết: “Sá»± mất cân bằng này sẽ làm gia tăng mâu thuẫn trong tìm kiếm tình bạn và vấn đề hôn nhân. Nhiều nam giá»›i không tìm được bạn tình hoặc vợ sẽ lâm vào tình trạng gia tăng nồng Ä‘á»™ ná»™i tiết tố nam (testosteron), dẫn đến tăng tính hung hãn. Tình trạng buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và mại dâm cÅ©ng sẽ tăng.”  [48] Những năm gần đây, làn sóng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giá»›i để Ä‘Æ°a sang Camphuchia, Trung Quốc… Ä‘ang ngày càng gia tăng và có quy mô lá»›n [49]. Không chỉ là chuyện buôn người, những rồi đây, những người đàn ông muốn lấy được vợ hoặc để giải quyết vấn đề ức chế sinh lý phải dùng những biện pháp bỉ ổi khác, và Ä‘iều này đã xảy ra rồi.

“Một số làng quê đã xuất hiện tình trạng con gái bị phong tỏa không cho tiếp xúc hoặc lấy chồng ở nơi khác, các thanh niên làng khác sang chơi, tìm hiểu bạn gái thì bị trai làng sở tại đuổi đánh, nhiều vụ đã thành án mạng, tình đoàn kết của hai làng bị phá vỡ qua nhiều thế hệ; một số tệ nạn xã hội khác cũng gia tăng, đó là hiếp dâm, xâm hại tình dục trẻ em, quan hệ tình dục đồng tính…” [50]

Các chuyên gia lo ngại hiện tượng này có thể gây ra những hậu quả xã hội khôn lường. Một số người tin rằng việc hàng triệu đàn ông không thể kiếm được vợ có thể dẫn tới nguy cơ gia tăng các hành vi bạo lực, chống xã hội. [51]

“Theo sự phân tích của giới chuyên môn, sự mất cân bằng giới tính sẽ đưa tới nhiều vấn đề về an sinh xã hội. Nạn trai thừa gái thiếu sẽ có phần tác động làm gia tăng nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em gái cũng như hoạt động mại dâm. Ở khía cạnh khác, nhiều nhà xã hội học cho rằng một số thanh niên nam giới bị cô đơn vì không tìm được người yêu bạn tình hay để lập gia đình, sẽ có thể bị lâm vào tình trạng gia tăng những bệnh tâm thần, và có thể làm cho tính tình thay đổi chẳng hạn như trở thành hung hãn.” [52]

1.4.3. Môi trường

Những năm gần đây, nhân loại phải chịu nhiều thảm họa do thiên nhiên gây ra. Những thiên tai xảy ra phần lớn là do ý thức của con người. Mỗi khi con người khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi thì người ta không thể lường được hậu quả của nó. Môi trường đang trở thành đề tài nóng bỏng, khiến các nhà khí tượng, khoa học và chính các quốc gia đang phải bận tâm. Những gì đang xảy ra trong môi trường hiện nay là hồi chuông báo động cho con người. Nếu con người không ý thức được tầm quan trọng của mình đối với môi trường thiên nhiên, thì hậu quả không chỉ là mình phải gánh chịu trước mắt nhưng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các thế hệ con cháu sau này. Người ta đang nỗ lực kêu gọi mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi công ty xí nghiệp và mỗi quốc gia phải hành động ngay để cứu vãn môi trường. Người ta kêu gọi bảo vệ các loài động thực vật khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Người ta kêu gọi khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách vừa phải. Người ta kêu gọi trồng cây gây rừng… Nhưng người ta quên đi một điều, một điều rất quan trọng có lẽ ảnh hưởng đến môi trường nhất, đó là sự mất cân bằng giới tính nơi con người, dân số già cỗi, sinh đẻ khan hiếm. Sự mất cân đối trong việc gia tăng dân số tự nhiên không là nguyên nhân ảnh hưởng đến môi trường ư? Chắc chắn là có. Con người cũng là một nhân tố trong môi trường thiên nhiên. Mỗi một nhân tố trong môi trường bị suy thoái thì chắn hẳn môi trường sống của các nhân tố còn lại cũng sẽ bị ảnh hưởng. Như chúng ta đều biết, con người làm chủ môi trường, con người có quyền thống trị trên thiên nhiên và con người cũng là một yếu tố trong thiên nhiên. Do đó, mức tăng trưởng tự nhiên về dân số là điều rất quan trọng đối với sự tồn vong của môi trường thiên nhiên.

“Cuộc sống có qui luật của nó. Con người muốn tồn tại và phát triển thì cần phải có những tác động để hạn chế những hiểm hoạ của thiên nhiên, nhưng cũng cần phải có những giải pháp để bảo vệ thiên nhiên, môi trường sống như qui luật của nó, có những điều không thể thay đổi và chúng ta cần phải sống chung với nó một cách hoà bình để giữ vững sự cân bằng của vũ trụ. Có như vậy chúng ta mới có thể thành công trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng con người.” [53]

(Còn tiếp...)


Chú thích:
[1]    Kinh Luân, Năm 2050: Dân số thế giá»›i sẽ tăng 40%, truy cập ngày 22/11/2007; http://quanlymt.blogspot.com/2005/03/nm-2050-dn-s-th-gii-s-tng-40.html.
[2]    Ibidem.
[3]    Ibidem.
[4]    Ibidem.
[5]    Ibidem.
[6]    Ngày dân số thế giá»›i, truy cập ngày 20/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-07/2006-07-11-voa33.cfm.
[7]    H. Diệu, FAO: Nạn nghèo đói vẫn Ä‘ang trầm trọng, truy cập ngày 22/11/2007; http://vietnamnet.vn/kinhte/thegioi/2003/11/38453/.
[8]    Ibidem.
[9]    Xc. Ngân hàng Thế giá»›i, BÆ°á»›c vào Thế ká»· 21, Báo cáo về tình hình phát triển 1999/2000 (Hà Ná»™i: Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 1999); xin coi thêm: Liên Châu, Dân số thế giá»›i đã lên đến 6,5 tá»· người, truy cập ngày 23/11/2007; http://thanhnien.com.vn.
[10]    Liên Châu, Dân số thế giá»›i đã lên đến 6,5 tá»· người, truy cập ngày 23/11/2007; http://thanhnien.com.vn.
[11]    Các vấn đề liên quan đến người nhập cÆ° và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.
[12]    La Giang, Sinh con ở Châu Âu, những Æ°u đãi, truy cập ngày 21/11/2007; http://nhipsong.timnhanh.com/tinh_yeu/gia_dinh/20071010/35A59188/.
[13]    Ibidem.
[14]    Các vấn đề liên quan đến người nhập cÆ° và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.
[15]    Ibidem.
[16]    T. Huyền, Châu Á vá»›i quả bom nổ chậm – Tuổi già, truy cập ngày 12/11/2207; http://mobi.vietbao.vn/The-gioi/Chau-A-voi-qua-bom-no-cham-tuoi-gia/10804394/168/.
[17]    Mỹ Linh, Dân số già, bệnh ung thÆ° gia tăng, truy cập ngày 18/11/2007; http://www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2005/04/3B9DDB8D/.
[18]    Các vấn đề liên quan đến người nhập cÆ° và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.
[19]    Global Issues, 5/2004, Tình trạng di cÆ° gia tăng – má»™t xu hÆ°á»›ng tất yếu trong tiến trình toàn cầu hóa, truy cập ngày 24/11/2007; http://vst.vista.gov.vn/home/database/an_pham_dien_tu/MagazineName.2004-04-22.2018/2004/2004_00038/MItem.2004-10-06.2002/MArticle.2004-10-06.2010/marticle_view.
[20]    Nguyá»…n Thu PhÆ°Æ¡ng, Công việc và trách nhiệm trong chính sách gia đình ở Châu Âu, truy cập ngày 02/11/2007; http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=6&news_ID=51134382.
[21]    Andrew Moravcsik, Châu Âu tuổi 50: Chúc mừng sinh nhật, truy cập ngày 20/11/2007; http://www.diendan.org/the-gioi/sinh-nhat-chau-au/.
[22]    Nhật Vy, Hình dung về việc làm trong tÆ°Æ¡ng lai, truy cập ngày 16/11/2007; http://vietnamnet.vn/kinhte/vieclam/2006/01/537466/.
[23]    Lợi thế dân số, truy cập ngày 11/11/2007; http://www.tiasang.com.vn/news?id=1709.
[24]    Ibidem.
[25]    Các vấn đề liên quan đến người nhập cÆ° và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.
[26]    Xc. Nhóm Biên soạn, Đạo đức Sinh học Bioethics (LÆ°u hành ná»™i bá»™, 2003), tr. 229-230.
[27]    Xc. Ibidem.
[28]    Mất cân bằng giá»›i tính : Việt Nam - bản sao của Trung Quốc, truy cập ngày 02/11/2007; http://thtt.chinhphu.vn/home/xahoi/2007/11/200711021907283750.aspx.
[29]    Ibidem.
[30]    La Giang, Sinh con ở Châu Âu, những Æ°u đãi, truy cập ngày 21/11/2007; http://nhipsong.timnhanh.com/tinh_yeu/gia_dinh/20071010/35A59188/.
[31]    Ibidem.
[32]    Hải Phong, Thế giá»›i vắng bóng trẻ em, Tsunami của dân số, truy cập ngày 21/11/2007; http://www.mofa.gov.vn/quocte/13,05/hoso13,05.htm.
[33]    Ibidem.
[34]    Ibidem.
[35]    Ibidem.
[36]    Ibidem.
[37]    Ibidem.
[38]    Thảo Nguyên, Thuốc tránh thai - con dao hai lưỡi, truy cập ngày 15/11/2007; http://www.sahara.com.vn/index.php?page=5&sub=943&script=tintuc&type=news&script=tintuc&view=10488.
[39]    Thanh Bình, Trung Quốc soạn thảo luật chống mất cân bằng giá»›i, truy cập ngày 18/11/2007; http://vietnamnet.vn/thegioi/2007/08/733788/ .
[40]    Mất cân bằng giá»›i tính : Việt Nam - bản sao của Trung Quốc, truy cập ngày 02/11/2007; http://thtt.chinhphu.vn/home/xahoi/2007/11/200711021907283750.aspx.
[41]    Chính sách má»™t con của Trung Quốc và tệ nạn buôn người, truy cập ngày 15/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-03/2006-03-13-voa41.cfm?renderforprint=1&textonly=1&&TEXTMODE=1&CFID=223242319&CFTOKEN=62695177.
[42]    Ibidem.
[43]    Chênh lệch giá»›i tính trẻ sÆ¡ sinh đã đến mức báo Ä‘á»™ng, truy cập ngày 21/11/2007; http://chamsoctre.com/content/view/304/32/.
[44]    Hồng Long, Chênh lệch giá»›i tính và những vấn đề của nó., truy cập ngày 23/11/2007; http://www.cpv.org.vn/print_preview.asp?id=BT21047731.
[45]    Thanh Nhàn, Việt Nam chÆ°a sợ mất cân bằng giá»›i tính, truy cập ngày 05/12/2007; http://www.vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/2006/07/3B9EC3AD/.
[46]    Mất cân bằng giá»›i tính : Việt Nam - bản sao của Trung Quốc, truy cập ngày 02/11/2007; http://thtt.chinhphu.vn/home/xahoi/2007/11/200711021907283750.aspx.
[47]    Ibidem.
[48]    Chênh lệch giá»›i tính trẻ sÆ¡ sinh đã đến mức báo Ä‘á»™ng, truy cập ngày 21/11/2007; http://chamsoctre.com/content/view/304/32/.
[49]    Phạm Trần, Hàng chục ngàn phụ nữ VN bị bán qua biên giá»›i, truy cập ngày 22/11/2007; http://vietnamnet.vn/xahoi/doisong/2004/12/357765/.
[50]    Hồng Long, Chênh lệch giá»›i tính và những vấn đề của nó, truy cập ngày 23/11/2007; http://www.cpv.org.vn/print_preview.asp?id=BT21047731.
[51]    Thanh Bình, Trung Quốc soạn thảo luật chống mất cân bằng giá»›i, truy cập ngày 18/11/2007; http://vietnamnet.vn/thegioi/2007/08/733788/.
[52]    Báo Ä‘á»™ng tình trạng chênh lệch giá»›i tính trẻ sÆ¡ sinh ở Việt Nam, truy cập ngày 20/11/2007; http://www.sbtn.net/?catid=61&newsid=21071&pid=157
[53]    Hồng Long, Chênh lệch giá»›i tính và những vấn đề của nó, truy cập ngày 23/11/2007; http://www.cpv.org.vn/print_preview.asp?id=BT21047731.


Fx. Trần Kim Ngọc, OP



  In bài này    Lưu dạng file    Gửi bài này qua Email


Những bài khác:



Gửi bài
Lên đầu trang
  Tin - bài mới nhất 
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Văn phòng TGM: Thông báo về Thánh lễ cao điểm Năm Thánh kỷ niệm 100 năm thành lập Tuần Chầu Lượt
Đức Giáo hoàng Phanxicô gặp Giáo chủ Giáo hội Chính thống Czech và Slovak
Giáo xứ Yên Đại: Khai mạc Tuần Chầu lượt trong Năm Thánh Thể Giáo Phận
Vòng loại Cuộc thi Tri thức Tôn giáo Cộng đoàn Vinh tại Hà Nội 2018: Cử hành và Sống Đức Tin
Chúa nhật Lễ Chúa Thăng Thiên, năm B: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Hội Dòng Chị Em Bác Ái Gioanna Antida Thouret: Thông báo tuyển sinh năm 2018
Giáo xứ Hòa Ninh: Khánh thành nhà thờ giáo họ Minh Lệ
Tòa Giám mục Giáo phận Vinh: Thông báo Lễ Truyền chức Phó tế cho các Đại Chủng sinh khóa XII
Hội Dòng Mến Thánh Giá Vinh: Thông báo Khóa học âm nhạc hè 2018
Thiên chức làm Mẹ của Đức Maria
Di dân Giáo phận Vinh tại Miền Nam: Bế mạc Giải Bóng đá Truyền thống Cúp Phục Sinh lần thứ VII
Thư Rao về việc truyền chức Phó tế cho Thầy G.B. Đoàn Văn Huy
Tuần Chầu lượt tại các giáo xứ Nghi Lộc, Làng Anh và Vĩnh Phước (Hà Tĩnh)
Thánh lễ Cao điểm Tuần Chầu giáo xứ Kẻ Mui: 14 tân tòng lãnh nhận các Bí Tích Khai Tâm

  Hỗ trợ Web GPVinh 

  Nghe Lời Chúa 


  5 phút suy niệm 


  Các Giờ Kinh Phụng Vụ 


  Vị Thánh trong ngày 


  Web Lam Hồng 


  Đăng nhập/Đ. ký 
Bí danh
Mật khẩu
Mã kiểm traMã kiểm tra
Lặp lại mã kiểm tra
Ghi nhớ

  Giáo Lý - Đức Tin 


  Bác ái xã hội - Caritas 


  Tài liệu mới 
  Danh sách các thầy khóa XII được truyền chức Phó tế
  ThÆ° Rao Truyền chức Phó tế khóa XII
  ThÆ° Rao Truyền chức Phó tế khóa 12
  HÆ°á»›ng dẫn Mục vụ Thánh nhạc
  "Sống Và Yêu Thật Lòng" / Lm. Micae – Phaolô Trần Minh Huy, PSS
  Tông Huấn Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu ThÆ°Æ¡ng) của Đức Phanxicô
  Yêu ThÆ°Æ¡ng là sứ mệnh của chúng ta - Để gia đình sống dồi dào
  Văn bản Đàng Thánh Giá do ĐTC chủ sá»± ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 03/04/2015
  Æ n Gọi Và Sứ Mạng Của Gia Đình Trong Giáo Há»™i Và Trong Thế Giá»›i Ngày Nay
  ÄÃ ng Thánh Giá thứ Sáu Tuần Thánh năm Tân Phúc Âm hóa đời sống giáo xứ - 2015
Xem tiếp...

  Radio Công giáo 



Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net