GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


_READMORE
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 22
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 022
 Lượt tr.cập 055573008
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Diễn đàn Giáo Phận Vinh 28.04.2024
DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH :: Xem chủ đề - Chúa nhật XII Thường niên B

 Chào mừng bạn đến với diễn đàn GIAOPHANVINH.NET


 Xem bài chưa có ai trả lời 
Đăng ký làm thành viênĐăng ký làm thành viên 

gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Suy niệm & chia sẻ theo mùa phụng vụ
 Bạn đang theo dõi chủ đề ở chuyên mục : Suy niệm & chia sẻ theo mùa phụng vụ 
Người đăng Thông điệp
Hoai_ke_mui
Thành viên
Thành viên


 

Ngày tham gia: 13/08/2007
Bài gửi: 202
Số lần cám ơn: 2
Được cám ơn 23 lần trong 22 bài viết

gửi email
Bài gửigửi: 20.06.2009    Tiêu đề: Chúa nhật XII Thường niên B Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN


Chủ đề nổi bật của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay được gặp thấy ở bài đọc I và bài Tin Mừng: quyền chúa tể của Thiên Chúa trên các yếu tố thiên nhiên, nhất là trên phong ba bảo táp, biểu tượng các thế lực của sự Dữ.
G 38, 1-11

Bài đọc I, trích từ sách Gióp, gợi lên hành động của Đấng Sáng Tạo, Ngài ấn định những giới hạn cho biển cả.


Mc 4, 35-41

Tin Mừng thường thuật cử chỉ của Đức Giê-su dẹp yên phong ba bảo tố trên Biển Hồ.


2Cr 5, 14-17

Bài đọc II trích từ thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô tiếp tục hiện hộ sứ vụ tông đồ của mình.
BÀI ĐỌC I (G 38,1. 8-11)
Đoạn trích sách Gióp nầy như một lời tựa ngôn cho câu chuyện Tin Mừng tường thuật cử chỉ của Đức Giê-su dẹp yên phong ba bão táp trên biển hồ Ghê-nê-sa-rét. Đức Giê-su sở hữu cùng một quyền năng thần linh như Đức Chúa, khi sáng tạo thế giới, Ngài xác định cho biển cả những giới hạn của nó. Không phải Ngôi Lời đã chủ trì công trình sáng tạo sao?
Theo thể thi ca đối đáp, tác giả vô danh đã phác họa chân dung ông Gióp, một người công chính phải hứng chịu nhiều nỗi bất hạnh. Ông than thân trách phận với ba người bạn và tiếp đó với người bạn thứ tư. Những người bạn nầy một mực trung thành với lời giải thích truyền thống: ác giả ác báo, sự đau khổ của một ai đó cho thấy kẻ ấy đã phạm tội; hay nếu người đó được xem là công chính mà phải chịu đau khổ, chính vì Thiên Chúa muốn ngăn ngừa những lỗi lầm của người ấy để khỏi phải sa vào tính tự cao tự đại.
Lúc đó Gióp nỗi giận đùng đùng; ông kêu gào mình vô tội và xin Thiên Chúa chứng giám sự vô tội của ông. Thiên Chúa trả lời cho ông trong cơn bảo táp, như ở núi Xi-nai khi Ngài ngỏ lời với ông Mô-sê. Đây là câu trả lời uy nghi của Đấng Sáng Tạo vũ trụ. Đức Chúa mô tả công việc của Ngài như nhà kiến thiết tự hào về công trình sáng tạo của mình: Ngài công bố quyền tối thượng của Ngài trên toàn cõi thế, đoạn trên biển cả (đây là đoạn văn được trích dẫn hôm nay), trên ánh sáng và bóng tối, trên gió bảo và mây trời, trên muôn loài muôn vật…
Đây đích thực là bài thi ca về công trình sáng tạo.
Bài thơ nầy là một trong những lý do khiến nghĩ rằng việc soạn thảo sách Gióp được định vị vào thời lưu đày Ba-by-lon.
1. Khung cảnh lịch sử:
Quả thật, hằng năm, ở Ba-by-lon vào lễ Tân Niên, người ta ngâm thiên hùng ca về cuộc sáng tạo ca ngợi cuộc chiến đấu của các vị thần linh chống lại thần hỗn mang và các quái vật của nó, và cuộc chiến thắng khải hoàn của thần Mác-đoút.
Như muốn đáp trả sự tán dương của một vị thần dân ngoại, và các nghi lễ tái diễn hằng năm nầy trong bối cảnh đa thần, những người Do thái lưu đày sáng tác những bài ca và những bài thơ chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ngài là Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, chỉ mình Ngài thật sự sáng tạo vũ trụ và an bài mọi sự.
Chuyện tích về công trình sáng tạo trong sáu ngày ở đầu Kinh Thánh làm chứng điều nầy. Đoạn trích sách Gióp từ chương 38 nầy cũng làm chứng như vậy. Những ám chỉ hay những vay mượn ở bản văn Ba-by-lon thật rõ ràng.
Bài thơ Ba-by-lon kể như thế nầy: sau khi đã chiến thắng thủy thần Ti-a-mát, hiện thân vị thần của vực thẳm nước nguyên thủy, thần Mác-đoút liền phân đôi tử thi của vị ác thần nầy. Với phân nửa tử thi nầy, thần Mác-đoút bao phủ bầu trời…Thần đóng cửa vực thẳm và đặt ngay tại chỗ những người canh cửa, rồi thần truyền lệnh cho họ không được để nước phun trào ra ngoài.
Những cách diễn tả tương tự gợi nhớ hình tượng Ba-by-lon được gặp lại trong vài Thánh Vịnh, như Tv 89,10-11:
“Chính Ngài (Đức Chúa) chế ngự trùng dương ngạo nghễ,
dẹp yên bao sóng cả sóng cồn.
Chính Ngài giày xéo thủy thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
tay mạnh mẽ đập tan quân thù”.
Hay Thánh Vịnh 74,12-13:
“Thế mà lạy Chúa, Vua chúng con từ muôn thuở,
Đấng từng chiến thắng trên mặt địa cầu,
chính Ngài đã ra oai xẻ đôi lòng biển, trên làn nước biếc,
Ngài đập vỡ sọ thuồng luồng”.
2. Ôn cố tri tân:
Trong sách Gióp, Thiên Chúa nhắc nhớ quyền năng của Ngài được diễn tả bằng những từ ngữ cao vời. Tác giả hướng phần cuối tác phẩm mình về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đức Chúa dạy cho ông Gióp một bài học: ai có thể tự cho mình vô tội? Ai có thể khoác lác khi đòi xét đoán Thiên Chúa và tính sổ với Ngài? Ấy vậy, Thiên Chúa không phải phân minh với bất cứ ai; Ngài siêu vượt trên muôn loài muôn vật.
BÀI ĐỌC II ( 2Cr 5,14-17)
Đoạn trích nầy thuộc vào những trang mà thánh nhân viết để biện hộ sứ vụ tông đồ của mình.
Sau khi đã nêu lên những gian truân và những niềm hy vọng của sứ vụ tông đồ, thánh Phao-lô vén mở cho thấy ngọn lửa nào đã hun đúc lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân: tình yêu của Đức Ki tô.
“Tình yêu của Đức Ki tô” nầy vừa diễn tả tình yêu của thánh Phao-lô đối với Đức Ki tô, vừa diễn tả tình yêu của Đức Ki tô đối với nhân loại (danh từ Đức Ki tô ở génitif mặc lấy hai nghĩa). Chính nghĩa thứ hai nầy: tình yêu của Đức Ki tô đối với nhân loại đã nung nấu lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh nhân.
1. “Nếu một người đã chết cho mọi người”:
Tính hữu hiệu hoàn vũ của hy tế Đức Ki tô khiến thánh nhân xúc động sâu xa. Niềm xúc động nầy gắn liền với cái chết của Đức Ki tô. Cái chết nầy không thể nào đánh thức những hình ảnh hung bạo được. Sự chừng mực của các thánh ký đã gìn giữ tính khách quan của các bài tường thuật đầy cảm xúc bao nhiêu, các bức thư với cung giọng cá nhân, như những bức thư của thánh Phao-lô, đã cho thấy độ nhạy cảm bấy nhiêu.
Tuy nhiên độ nhạy cảm của thánh Phao-lô đặc biệt sống động khi thánh nhân gợi lên sự liên đới của Đức Giê-su đau khổ với nhân loại tội lỗi. Ơn cứu độ đã không được đem đến cho một mình dân Ít-ra-en, nhưng cho toàn thể nhân loại. Tâm hồn Do thái của thánh Phao-lô xúc động sâu xa về điều nầy. Thánh nhân sẽ khai triển sâu xa khía cạnh đạo lý về mặc khải nầy trong thư gởi các tín hữu Rô-ma.
2. “Thì mọi người đều chết”:
Tư tưởng rất ngắn gọn; từ ngữ rất giản dị chắc chắn âm vang lời dạy của thánh nhân. Để hiểu đoạn trích nầy, tốt nhất nên quy chiếu đến chương 6 của thư gởi các tín hữu Rô-ma.
“Mọi người đều chết”, nghĩa là, chết đối với tội. Chính “con người xưa cũ” của chúng ta đã bị đóng đinh với Đức Ki tô. Chính vì chết đối với tội nầy mà việc dìm vào trong nước thanh tẩy là dấu chỉ: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6: 8) và “Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6: 10).
3. “Để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”:
Đây là suy tư thuộc trật tự tổng quát, nhưng đặc biệt nhắm đến các tín hữu Cô-rin-tô và những chia rẽ của họ, vì thánh nhân đặt trọng tâm phần trình bày nầy chung quanh khía cạnh sứ vụ hòa giải. Sống trong Đức Ki tô, chính là không còn biết một ai “theo quan điểm của loài người”, nhưng nhìn tha nhân “theo quan điểm của Thiên Chúa”.
4. “Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa”:
Phải chăng lời phát biểu nầy muốn nói rằng thánh Phao-lô đã biết Đức Giê-su hay ít ra đã thoáng thấy Ngài, có thể đã lắng nghe Ngài nói; tuy nhiên thánh nhân đã thuộc về số người không tin vào sứ điệp của Ngài? Đoạn văn nầy đã gây nên biết bao lời giải thích, nhưng dấu hiệu quá nhỏ nên người ta không thể rút ra một câu kết luận như vậy. Đúng hơn, phải chăng thánh nhân ám chỉ đến thời kỳ thánh nhân là kẻ bách hại, thời kỳ mà thánh nhân khảo sát Đức Ki tô “theo quan điểm loài người”? Lời giải thích nầy cũng không chắc.
Người ta cũng không loại trừ quan điểm bút chiến; đó có thể là chìa khóa của bản văn nầy. Thánh Phao-lô đã viết không bao lâu sau cái chết của Đức Giê-su. Trong đám thính giả của thánh nhân và trong số những người nhận thư thánh nhân, thánh nhân là một trong số người đã biết Đức Ki tô. Vài người trong số họ kiêu hãnh vì mình thuộc “nguồn gốc Do thái”; thậm chí họ dựa trên sự kiện là Đức Giê-su đã thực hành luật Do thái để áp đặt luật nầy trên những Ki tô hữu gốc lương dân. Dường như trong số những đối thủ của thánh nhân ở Cô-rin-tô có những người Ki tô hữu gốc Do thái thuộc loại nầy. Họ đã đề xuất những lập luận dựa trên một quan niệm về Đức Ki tô “theo xác thịt” như bản văn Hy lạp diễn tả để đòi hỏi áp dụng những yêu sách của họ.
Thánh Phao-lô công bố rằng quan niệm nầy đã lỗi thời. Chính không còn ở nơi cuộc sống “theo xác thịt” nhưng ở nơi cuộc sống “theo Thần Khí” mà người Ki tô hữu được mời gọi dự phần vào: họ đã trở thành “một thọ tạo mới”. “Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”. Tại thánh Phao-lô có một cái nhìn hướng về tương lai. Không có gì phải kềm chế niềm hưng phấn lao về phía trước của thánh nhân, về Đức Ki tô quang vinh…Thánh nhân nói với các tín hữu Ê-phê-sô khi dùng động từ ở thì hiện tại: “Người cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki tô trên cõi trời rồi” (Ep 2,6). “Cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki tô” là chuyện tương lai (Rm 6: 3-11), nhưng hiệp thông với Đức Ki tô, ngay từ bây giờ chúng ta thật sự đã được cùng sống lại và cùng ngự trị với Ngài trên cõi trời rồi.
TIN MỪNG (Mc 4, 35-41)
Bài tường thuật nầy của thánh Mác-cô là một trong những bài tường thuật sống động nhất và ý nhị nhất của sách Tin Mừng nầy. Thánh ký cho thấy mình là một người kể chuyện tài ba. Những bài tường thuật sóng đôi của Mt 8,23-27 và Lc 8,22-26 không cung cấp những chi tiết chính xác đến như vậy, ví dụ: “Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào gối mà ngủ”, và không tường thuật với cung giọng rất quen thuộc: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
Chúa Giê-su đã giảng dạy đám đông suốt ngày: Ngài muốn tách mình ra khỏi đám đông để có thể nghỉ ngơi một chút. Vì thế, Ngài yêu cầu các môn đệ đưa Ngài sang bờ bên kia. Các môn đệ vâng lệnh ngay lập tức và chở Đức Giê-su đang khi Ngài “đang ở trên thuyền”, nghĩa là cùng trên một chiếc thuyền Ngài đã vừa mới ngỏ lời với dân chúng hiện đang ở trên bờ, như đã được chỉ rõ ở Mc 4,1-2: “Đức Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung quanh Người nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám đông thì ở trên bờ. Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều”.
Bằng những dụ ngôn, Đức Giê-su đã gợi lên rằng Nước Trời đến một cách quyền năng; Ngài sắp chứng minh cho họ bằng hành động. Đối với các đối thủ của Ngài, những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Ngài đã luôn luôn từ chối cung cấp một dấu chỉ ngoạn mục về uy quyền Mê-si-a của Ngài. Riêng cho các môn đệ của Ngài, Ngài sẽ ban cho dấu chỉ nầy.
1. Con thuyền trong phong ba bảo táp:
Những phong ba bảo táp trên Biển Hồ thường bất ngờ xảy đến. Chúng do từ cuộc gặp gỡ giữa ngọn gió tây thổi từ Địa Trung Hải và gió sa mạc lạnh buốt bất ngờ dâng cao vào lúc đêm xuống.
Sự thanh thản bình an của Đức Giê-su tương phản với trận cuồng phong sóng dữ. Kiệt sức sau một ngày giảng dạy, Đức Giê-su “dựa đầu vào gối mà ngủ”. Gối nầy dành riêng cho người lái thuyền luôn luôn ở đằng lái. Dường như người lái thuyền nhường chỗ đằng lái cho Ngài để Ngài ngủ cho lại sức. Đức Giê-su mệt mõi: Ngài thật sự là một con người, nhưng Ngài sẽ cho thấy Ngài còn hơn cả một con người.
Cũng như, sau một dặm đường dài vừa mệt mõi vừa khát, Ngài đã tựa mình vào thành giếng Gia-cóp ở Xy-kha để nghỉ lại sức và xin người phụ nữ Sa-ma-ri một chút nước để giải khát. Ngài đã chọn thời điểm nầy để mặc khải cho chị và dân tộc chị Ngài là Đấng Mê-si-a.
Sự đối lập giữa sự yếu đuối thể lý và sức mạnh thần thiêng ở nơi câu chuyện của Mác-cô cũng mặc khải mầu nhiệm con người của Ngài: Ngài là chủ tể của mọi yếu tố thiên nhiên.
Trong cảnh đêm tối với sóng to gió lớn, các môn đệ sợ hãi đánh thức Ngài. Họ hoảng loạn đến cực độ và tiếng kêu cứu của họ trộn lẫn vừa niềm tin tưởng lẫn lời trách cứ: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”.
2. Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su truyền lệnh cho biển như một quyền lực được nhân cách hóa. Với cùng những lời như vậy, Ngài đã buộc quyền lực của quỷ ở trong người bị quỷ ám phải câm lặng. Đức Giê-su là Đấng làm cho quyền lực của sự dữ phải thất bại. Những yếu tố thiên nhiên đang điên cuồng gào thét là một biểu tượng.
Sau khi dẹp yên phong ba bảo tố, Đức Giê-su quở trách các môn đệ vì họ thiếu niềm tin vào Ngài. Chỉ mới trước đây thôi, thánh Mác-cô nói với chúng ta, Ngài đã giảng giải cho họ một cách đặc biệt (4,33-34). Sự quan tâm đặc biệt của Ngài đối với họ đã không có một mảy mai tác dụng sao?
Tất cả câu chuyện được xây dựng trên sự căng thẳng liên tục để rồi đạt đến cao điểm ở nơi sự sợ hãi của các môn đệ về mầu nhiệm của Ngài. Nhưng ở đây, sự sợ hãi của các môn đệ thay đổi bản chất và đối tượng. Nỗi sợ hãi linh thánh xâm chiếm lấy họ: “Ông nầy là ai, mà cả đến gió và biển cũng phải tuân lệnh?”.
3. Ý nghĩa thần học:
Biến cố nầy không đơn thuần chỉ là một phép lạ nhưng còn là một biểu tượng về định mệnh của Đức Giê-su. Khi lôi kéo các môn đệ vào phong ba bảo táp, đó không là một sự tình cờ. Cả cuộc đời Ngài là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sức mạnh của sữ Dữ. Việc Ngài thanh thản nằm ngủ trong phong ba bảo táp hàm chứa nhiều ý nghĩa. Trong Kinh Thánh giấc ngủ là biểu tượng của cái chết. Như vậy việc Chúa Giê-su bình yên nằm ngủ trong phong ba bảo táp ám chỉ cuộc Tử Nạn của Ngài, cuộc Tử Nạn khiến các môn đệ kinh hoàng vì thiếu niềm tin. Sau giấc ngủ, Đức Giê-su chỗi dậy như một vị Thiên Chúa đầy quyền năng chiến thắng trên quyền lực của sự Dữ và Tử Thần. Trước quyền năng nầy, các môn đệ thắc mắc và nêu lên câu hỏi quan trọng nầy: “Ông nầy là ai mà cả đến gió biển phải tuân lệnh?” Bởi vì trong Kinh Thánh, chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền chế ngự sóng nước của Tử Thần (Tv 107,23-30).
Khi thuật lại câu chuyện nầy, thánh Mác-cô nhắm đến hai mục đích. Trước hết, Đức Giê-su thật sự là một con người, nhưng cũng thật sự là Thiên Chúa. Thứ nữa, các tín hữu Rô-ma đang bị bách hại dữ dội. Trong cơn bách hại dữ dội nầy, dường như Đức Giê-su đang ngủ. Việc Ngài xem ra vắng mặt trong khi họ phải đương đầu với biết bao nỗi truân chuyên, khiến họ nghi nan ngờ vực. Chúa sẽ làm gì để cứu họ khỏi cái chết đang cầm chắc nầy? Câu chuyện nầy là câu trả lời của thánh Mác-cô gởi đến cho họ.

Lm. Ignatiô Hồ Thông
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này
Trình bày bài viết theo thời gian:   
« Xem chủ đề trước | Xem chủ đề kế »
gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Suy niệm & chia sẻ theo mùa phụng vụ


 
Chuyển đến
 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn
Bạn không được phép gởi kèm file trong diễn đàn
Bạn có thể download files trong diễn đàn


Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net