Lược sử Giáo hội Công giáo (Chương XI)
10.05.2008
.
PHẦN II : TỪ PHỤC HƯNG TỚI NAY
Chương XI PHỤC HƯNG
VÀ CẢI CÁCH
Cuối thế kỷ XV có những Quốc gia tân thời xuất hiện, muốn
thoát khỏi quyền lực của quá khứ là quyền Giáo Hoàng và hoàng đế, đồng thời một
cuộc canh tân văn hóa sâu xa được gọi là phục hưng. Vào đầu thế kỷ XVI có nhiều
cuộc cải cách Giáo Hội. Đáng tiếc là các cuộc cải cách đã làm cho Giáo Hội Tây
phuơng đổ vỡ, do những người trong cuộc
không hiểu nhau và có những cuộc bạo hành với nhau. Cuối thế kỷ XVI, những nét
mới của một địa lý tôn giáo được phác họa và còn tồn tại tới ngày nay.
I. ÂU CHÂU THỜI PHỤC HƯNG
1.
Các quốc gia mới và các quyền lực cũ :
- Năm 1453 kết thúc cuộc chiến 100 năm. Xác định được ranh giới
lãnh thổ nước Pháp và nước Anh.
* Ở Pháp : các ông vua củng cố uy quyền của mình trong mọi
lãnh vực kể cả tôn giáo. Vua FranÇois I có quyền lực quan trọng trong Giáo Hội Pháp.
* Ở Anh : nước Anh là vương quốc nhỏ nhưng
vua Henry VIII đóng vai trò hàng đầu trong Châu âu về chính trị và tôn giáo.
* Ở Tây Ban Nha : sự hiệp nhất của toàn đất nước.
Các vua Công Giáo rất lưu tâm đến lợi ích của Giáo Hội, họ đồng
hóa lợi ích với nhà nước.
- Phía Đông Âu : Ba Lan là một nước rộng về lãnh thổ, yếu về
định chế chính trị, tiếp tục phát triển bước tiến Kitô giáo La tinh, trước thế
giới Chính thống.
- Thánh đế quốc La-Đức : hoàng đế không có quyền hành trên
vô số tiểu quốc. Từ năm 1438 hoàng đế liên tục được lựa chon từ dòng họ
Habsburg. Đến năm 1519, hoàng đế Carolo Quinto vừa được thừa kế, ông mơ ước
thống trị thế giới. Tuy nhiên, ông vấp phải sự đối đầu với vua nước Pháp của
Giáo Hoàng.
- Quyền Giáo Hoàng : từ cuộc đại ly giáo Tây phương, quyền
Giáo Hoàng mất đi một phần uy tín : là người Ý, Giáo Hoàng xen vào vụ việc của
nước Ý là đối tượng tranh dành của nước Pháp và dòng họ Habsburg. Các Giáo
Hoàng làm giàu cho gia đình, con cháu. Thẩm chí Giáo Hoàng có thời là phong
cách của một tướng lãnh dùng binh khí tân công kẻ thù. Tuy nhiên, trong vai trò
là những người bảo trợ văn nghệ, các
ngài cũng là những người góp phần quan trọng vào việc canh tân nghệ thuật và văn
chương của thời phục hưng.
2.
Canh tân văn chương, nghệ thuật và khoa học :
- Thế kỷ XVI nhận thấy một sự đổi mới kì diệu về văn hóa được
thực hiện trong một vài thập niên. Năm 1456 nghành in được phát minh do
Gutenberg, tạo ra một cuộc cải cách trong việc truyền bá tư tưởng. Vì thế,
nhiều tác phẩm trước đây dành cho một số ưu đãi nay được phổ biến. Người ta in
nhiều tác phẩm đời của thời cổ, các sách tôn giáo : sách của các giáo phụ, Kinh
Thánh và sách đạo đức...
-Thời phục hưng : nổi bật là các nhà nhân bản. Nếu dựa vào
tác phẩm ông hoàng thì phần đông vẫn là những người Kitô hữu muốn dùng công
trình của mình để cải thiện Giáo Hội và các tín hữu. Trong đó có Thomas More, thủ tướng Anh, là nhà nhân bản Kitô
giáo dễ mến nhất. Nhưng chính Erasmo mới
là thủ lãnh của các nhà nhân bản. Ông ấn
hành một số tác giả cổ thời, nhất là các giáo phụ. Ông viết các đề tài khác
nhau, trong đó ông đả kích hàng giáo sĩ về trình độ học vấn dốt nát. Erasmo chủ
định tái sinh con người bằng cách thanh tẩy tôn giáo và rửa tội cho văn hóa. Về
chính trị Erasmo muốn xây dựng một chính trị dựa trên Phúc Âm. Ông đã gây ảnh hưởng
lớn đối với tất cả những ai muốn có một cuộc cải cách Giáo Hội trong hòa bình,
nhưng cuộc cải cách có tính bạo động thắng thế.
3. Tình hình Giáo Hội :
- Cuối thế kỷ XV, người ta dựa vào Khải
huyền loan báo ngày tận thế sắp đến. Vì thế người Kitô hữu lo lắng phần rỗi của
mình, nên đã nhiều người chạy đến với phù thủy, Giáo Hội lùng bắt các phù thủy
trong hai thế kỷ có tới trăm ngàn bị thiêu trên giàn. Dân chúng tìm cách giải
tỏa bằng việc tôn kính Đức Mẹ, bằng việc hành hương, kiếm ân xá. Chính Giáo Hội
lại không làm cho người ta tin tưởng. Nhiều linh mục không đáp ứng chờ mong của
các tín hữu, vì dốt nát. Nhiều Giám mục chỉ quan tâm đến lợi tức, nên kiêm
nhiều Tòa Giám mục. Thẩm chí người ta không tin cả Đức Giáo Hoàng, bởi vì Giáo
Hội luôn cần tiền để xây cất, để tổ chức các cuộc lễ... Vì thế, các Đức Giáo
Hoàng ban phép chuẩn về cư sở cho phép kiêm nhiễm, bán ân xá... Chính vì thế,
Erasmo mỉa mai những lạm dụng trong Giáo Hội. Savonarola lớn tiếng tố giác
những thói hư của Đức Giáo Hoàng Alex.VI, vì bắt dân Freze sống khắc khổ như đan
sĩ.
Vì vậy, thời Giáo Hoàng Giulio II,
triệu tập Công Đồng Laterano I. Công Đồng than phiền về những lạm dụng và đề ra
cải cách nhưng không tiếp nối. Cũng vào năm bế mạc Công Đồng, Luther cho dán ở Wittenberg, 95 luận đề
chống lại bán ân xá.
II. CÁC NHÀ CẢI CÁCH
"Cải cách" đã trở nên đồng
nghĩa với đoạn giao trong Giáo Hội Tây phương. Bởi vì người ta thấy trong Giáo
Hội có nhiều lạm dụng, nên nhiều người đã rời bỏ Giáo Hội. Trong đó chúng ta
thấy có hai nhân vật cải cách lớn đã rời bỏ Giáo Hội : Luther và Calvin.
1.
Luther và cuộc cải cách ở Đức
Cuộc cải cách bắt đầu ngày 31-10-1517, nhưng thực ra tiến
trình lâu trước đó.
Luther người Đức, sinh 1483. Vào dòng Augustino năm 1505,
sống đời đan sĩ và làm linh mục. Trong vụ việc bán ân xá của các tu sĩ Đa minh,
thì đây là dịp để Luther công bố khám phá của mình. Hành động này vừa là lời
phê phán Giáo Hội, vừa là lời mời gọi tranh luận với các giáo sư đại học. Những
luận đề dán ở Wittenberg vang dội trong cả nước Đức và khắp Châu âu.
Tháng 6.1520 tông chiếu Exsurge kết án 41 luận đề của ông và đề nghị ông rút
lại luận đề đó, nhưng ông công khai đốt tông chiếu này. Năm 1521, ông bị vạ
tuyệt thông.
- Đối với Luther không ý thức lập một Giáo Hội mới, ông cho
rằng Giáo Hội sẽ tự canh tân khi trở về với Phúc Âm.
- Theo Luther : ý thức mình tự bản chất là một tội nhân, mà
con người khám phá trong Kinh Thánh thấy
rằng, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, do lòng tin. Thiên Chúa làm mọi sự và con người
không làm gì cả. Luther chối tất cả truyền thống, chống lại sự tối thượng của Kinh Thánh và tin : chẳng hạn việc tôn
kính các thánh, ân xá, khấn dòng, các bí tích không được chứng thực trong Phúc
Âm. Ông chỉ nhận chức tư tế phổ quát của các tín hữu.
Trong thực tế, chỉ duy trì hai bí tích, đó là bí tích Rửa
tội và Thánh Thể ; nhưng phủ nhận tính chất hy tế của tiệc Thánh Thể, song lại
nhận sự hiện diện thực sự của Đức Kitô.
Ông phủ nhận quyền của Giáo Hội. Giáo Hội của ông là Giáo Hội quốc gia tùy theo
mỗi nước.
2.
Calvin
- Với cuộc cải cách ở Pháp và Thủy sĩ. Calvin là một giáo
dân ở nước Pháp, giáo lý của Calvin tương tự giáo lý của Luther, nhưng có hệ
thống hơn, có nét nhấn mạnh hơn. Calvin đặt nặng vai trò Kinh Thánh và Đức tin,
rất nhấn mạnh đến sự hư hoại của con người sau tội nguyên tội. Calvin vừa nói đến Giáo Hội hữu hình, vừa nói đến Giáo
Hội vô hình. Theo ông có bốn loại thừa tác trong Giáo Hội : mục tử, tiến sĩ,
niên trưởng và phó tế.
Năm 1559, Theodore de Bère lập Hàn Lâm Viện ở Genève, góp
phần làm lan tỏa các cuộc cải cách của Calvin. Như vậy, Calvin đã ghi dấu ấn uy
quyền và tính phổ quát cuộc cải cách.
- Ngoài hai nhân vật nói trên, cũng vào thời kỳ này còn có
cuộc cải cách khác : Bucer, Cecolampade, Zwingli, tất cả đều là linh mục. Riêng
cuộc cải cách của nhân vật cuối ảnh hưởng ở Berne
và trên toàn Thủy sĩ. Nói chung, tất cả đều đồng quan điểm với Luther về Đức
tin và Kinh Thánh, nhưng bất đồng với nhau về Thánh Thể.
III. CHÂU ÂU CỦA CÁC HỆ PHÁI CẢI CÁCH
1.
Đức và Bắc âu
- Hoàng đế Corolo Quinto vẫn nuôi hy vọng tái hiệp nhất tôn
giáo trong đế quốc. Ông liên tiếp triệu tập hội nghị, giàn xếp, dùng vũ lực...
Năm 1526, hội nghị Speyer
cho các ông hoàng tự do cải cách. Năm 1529, hội nghị lần thứ hai rút lại nhượng
bộ này. Do đó các ông hoàng phe cải cách phản đối. Vì thế, hai bên nhất quyết
không đồng quan điểm với nhau, không đem lại bình an và hiệp nhất tôn giáo.
Cuối cùng đi đến miền nào đạo nấy. Đạo do các ông hoàng tự do lựa chọn và các
thần dân dưới quyền ông phải theo, hoặc phải bỏ đi nơi khác.
- Trên vùng Scandinavi, các ông vua chọn giáo phái Luther.
Dân chúng phần đông vẫn duy trì tập tục cũ.
2.
Quần đảo Anh
- Nguồn gốc cuộc tranh chấp giừa vương quốc Anh và Rôma là
do hôn nhân của vua Henry VIII, ông xin Rôma hủy bỏ cuộc hôn nhân với Catharina
d'Aragon, nhưng bị từ chối nên ông đã buộc hàng giáo sĩ Anh thực hiện việc hủy
bỏ này và tự coi mình là thủ lãnh Giáo Hội Anh.
Năm 1553, Mari Tudor trở thành nữ hoàng, tái lập Công Giáo
trên toàn quốc.
Năm 1558, Elizabeth I lên ngôi nữ hoàng vĩnh viễn thiết lập
Giáo Hội Anh. Đây là một Giáo Hội pha trộn, với thần học thì gần với giáo thuyết Calvin nhưng hình
thức vẫn duy trì theo Công Giáo.
- Nước Scotland theo giáo phái Calvin. Giáo Hội cải cách ở đây
có qui chế chính thức năm 1560. Người tổ chức là Gioan Knox
- Ở Ailen : cương quyết từ chối những gì mà nước Anh áp đặt.
3.
Pháp và Hòa lan
- Lúc đầu các vua Pháp trung thành với Giáo Hội Rôma, do đó
ngày càng đàn áp dữ dội các người theo lạc giáo. Tuy nhiên, các Giáo Hội cải
cách vẫn thiết lập trong nhiều thành phố. Vì vậy, các vua Pháp đã tàn sát rất
mạnh, nên đã gây cuộc chiến tranh tôn giáo từ năm 1562-1598. Năm 1598, vua
Henri IV ban hành sắc chỉ Nentes, đưa nước Pháp trở lại hòa bình. Vì thế, mọi
người được tự do lương tâm, tự do tôn giáo, nhưng với một số hạn chế.
- Ở Hòa Lan : nước này do vua Tây Ban Nha là Philiphe cai
trị. Năm 1561 giáo phái Calvin tràn vào, nhưng bị chính quyền đàn áp đẫm máu.
Tuy nhiên, ở các tỉnh phía bắc các người theo cải cách, thiết lập quốc giáo tự
do lấy giáo thuyết Calvin làm quốc giáo.
Kết : Như vậy Kitô giới Âu châu trước đây đã bị phân chia thành
nhiều Giáo Hội đối nghịch với Rôma : các Giáo Hội theo giáo phái Luther hay
Giáo Hội Phúc Âm ; các Giáo Hội theo giáo phái Calvin hay là Giáo Hội cải cách.
Giáo Hội Rôma bị tổn thương trầm trọng, sẽ phản ứng chủ yếu bằng cách canh tân mình, nhưng cũng có
một số ông hoàng Công Giáo dùng vũ lực, để
tái chiến những phần đất bị mất. Đôi khi người ta gọi những việc này là chống
cải cách.
|