Giáo Hội và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (3)
09.05.2008
.
GIÁO HỘI
Những tiếp xúc ban đầu với dân tộc Thượng ở vùng cao
Cho đến
năm 1899, dân vùng Di Linh, Đà Lạt vẫn chỉ tiếp xúc với quan quyền qua ngả Phan
Rí. Nhưng năm 1882, thừa sai Gonzague Voillaume Đề mới 24 tuổi được cử đến Phan
Rang, coi sóc cả vùng Phan Rang, Phan Thiết có khoảng 2.000 giáo dân: Láng Mun
(Tân Hội, Phan Rang), Xóm Gò, Dinh Thuỷ (Tấn Tài), Mai Nương (Cầu Chuối) và Rừng
Lai (Đá Hàn).
Tháng
5-1885, phong trào Văn Thân nổi lên, một số giáo dân ở Láng Mun, bị bách hại,
cha Voillaume chạy thoát, cùng với thầy Sáu Khiêm và hai chú giúp việc theo ngả
Đơn Dương, xuống Di Linh, rồi mất gần một tháng mới về được Sài Gòn. Khi cha
Voillaume trở về nhiệm sở năm 1887, xứ đạo chỉ còn 400 giáo dân trong cảnh hoang
tàn. Cha qua đời năm 1900.
Tiếp
theo đó là các đoàn thám hiểm của Pháp từ ven biển đi lên, với Alexandre Yersin
có lẽ theo đường Tamon (Gun Phori), vào tháng 3-1890, từ Phan Rí qua Tam Bố hay
theo sông Mao qua Lang Hanh ngược lên phía Di Linh. Yersin bị sốt rét, chỉ đi
được trong thời gian ngắn nên bỏ cuộc. Đúng ba năm sau, Yersin lại đi lần thứ
hai, từ tháng 3 đến tháng 7-1893, theo con đường từ Nha Trang, sông Đa Nhim, Đơn
Dương, qua Fimnon, Prenn và đến tận vùng Lâm Viên, Đà Lạt vào đúng 15g30 ngày
21-6-1893.
Ernest
Outrey được lệnh lập tỉnh Đồng Nai Thượng ngày 1-11-1899, bao gồm cả một diện
tích rộng lớn. Ngay giữa thế chiến I (1914-1918), tỉnh Lâm Viên được thành lập
với Đà Lạt làm thủ phủ, và Cunhac làm Công sứ đầu tiên, theo quyết định ngày
6-1-1916.
Hai năm
sau, cha Nicolas Couvreur, quản lý hội Thừa Sai ở Singapore, được phép lập một
Nhà An Dưỡng và một họ đạo tại Đà Lạt, với cha Frédéric Sidot là quản đốc đầu
tiên (1920). Một nhà nguyện có kiến trúc kiểu đình Việt Nam và một cô nhi viện
được xúc tiến xây dựng ngay.
Cơ
sở truyền giáo cho các dân tộc Thượng ở Di Linh
Sau gần hai mươi năm bị giải thể, tỉnh Đồng Nai Thượng được
tái lập với diện tích gồm Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh và một phần Định Quán
ngày nay. Đường từ Phan Rang - Ngoạn Mục - Đà Lạt xong thì đường xe lửa răng cưa
được khởi công và đến năm 1933 mới hoàn thành.
Công
trình hạ tầng đó đã cuốn hút nhiều người ao ước lên miền Cao Nguyên. Ngày
13-10-1926, Đức Cha Isidore Dumortier Đượm mua thửa đất của ông Mười Ngô Châu
Liên (ông đã mua lại của người Cơ Ho, tên là K’Brai) làm cơ sở truyền giáo
Thượng đầu tiên cho vùng Di Linh.
Ngày
14-10-1926, cha Jean Cassaigne Sanh được lệnh thuyên chuyển ra Di Linh khi đang
học tiếng Việt tại Cái Mơn, cha mới từ Pháp sang Việt Nam được 8 tháng. Ngày
30-1-1927, thánh lễ Chủ nhật chỉ vỏn vẹn có 5 người. Chung quanh chỉ thấy rừng
với hươu nai, heo rừng sinh sống tự do trên sở đất của nhà thờ. Chỉ sau hai
tháng đến Di Linh, cha đã là nạn nhân của bệnh sốt rét rừng.
Năm
1928, họ đạo có 36 tín hữu trong đó có 12 người Pháp, 4 người Việt dự tòng và 20
tín hữu người Việt sống rải rác trong vùng cách Di Linh chừng 50km. Nhưng nhiệm
vụ của cha là truyền đạo cho người Thượng, nhất là các dân tộc trong nhóm Cơ Ho
(Xrê, Ma, Chil, Tring, Noang, Nop, Lat…).
Những
năm đầu, cha phải học tiếng Cơ Ho bằng cách tiếp xúc với các anh chị em Thượng,
rồi ghi chép lại. Năm tháng sau khi lên nhiệm sở, cha làm một nhà thờ riêng biệt
với nhà xứ, rồi bắt đầu dạy học, dạy giáo lý và làm cả thầy thuốc chữa bệnh.
Công việc rất khó khăn vì thầy trò chưa hiểu tiếng nhau. Cuốn Tự điển Cơ
Ho-Pháp-Việt của cha được in xong tại nhà in Tân Định ngày 28-12-1929.
Cha lo
cho anh chị em Thượng, không phải chỉ những người bình thường mà cả những người
bị bệnh phong. Một người đàn bà Cơ Ho bị phong đầu tiên tin đạo. Bà là 1 trong 6
người bệnh mà cha giúp cho ít gạo, muối, thịt nai mỗi tuần. Cha dạy bà biết có
Chúa Trời Đất và sự quan phòng của Ngài. Bà tin nhận và cha rửa tội cho bà ngày
7-12-1927.
Năm
1928, thấy nhu cầu giúp đỡ người bị bệnh phong quá lớn, cha quyết định lập một
làng riêng cho họ trên một khoảng đất trống ở chân đồi 1081, cách nhà xứ khoảng
1.000m. Ngày 11-4-1929, làng phong chính thức được chính quyền đương thời công
nhận và yểm trợ. Con số 21 bệnh nhân ban đầu đã lên tới 100 sau 4 năm. “Bép”
Cassaigne được mọi người thương mến, cha vận động tiền của để chính những bệnh
nhân tự lo xây dựng thêm nhà cửa, đường xá và các tiện nghi khác cho làng của
mình.
Gia
tăng hoạt động truyền giáo
Sau khi hệ thống giao thông cơ bản hoàn tất, chính quyền
thuộc địa cổ vũ việc khai thác Cao Nguyên theo các trục lộ chính. Khu tứ giác
200.000 mẫu giới hạn bởi Prenn, KrongPha, Fimnon, Dran được chú ý trước nhất.
Nhân công được đưa từ vùng châu thổ sông Hồng vào. Từ đó, giáo xứ người Việt dần
dần được hình thành ở Bắc Hội (năm 1928, 35 giáo dân, gần ngã ba Fimnon).
K’Brai, người anh em Cơ Ho đầu tiên, tin đạo và chịu bí tích Rửa Tội ngày
19-3-1930. Đến lễ Giáng Sinh năm đó, cả 8 người trong gia đình K’Brai tin Chúa,
trước khi cha Cassaigne phải về trị bệnh tại Pháp năm 1932, cha Henri Sion đến
tạm thay thế. Năm 1932, họ đạo Di Linh có một nhóm tín hữu khá khiêm tốn: 60
người Việt, 31 người Pháp, 18 người Thượng và 96 dự tòng.
Sau 9
tháng nghỉ bệnh, cha Cassaigne trở lại Di Linh ngày 22-2-1933, trong tình hình
kinh tế Đông Dương suy sụp nặng từ 1932-1937. Ngày 26-5-1935, nhân dịp Đức cha
Dumortier đến Di Linh, 88 tân tòng chịu phép Thêm sức (49 người Thượng, 39 người
Kinh). Cũng năm này, dòng Nữ Kinh sĩ Augustin đến Sài Gòn và ngày 9-1-1936, đến
hoạt động tại Đà Lạt, ở họ đạo Trường Xuân (Cầu Đất).
Trong
thập niên 1930-1940, khi Trung tâm Thực nghiệm Nông học Công Hinh hình thành với
công tác khai thác nguồn lợi lâm thổ sản ở Cao Nguyên, một họ đạo cũng được xây
dựng ở Công Hinh. Công Hinh là địa danh cũ của B’lao hay Bảo Lộc, gồm 4 làng Đa
Binh, Đang, Đạ, Conte’h và B’lạch. Tổng số tín hữu của họ đạo vào dịp Giáng Sinh
năm 1936 là 42 người. Với tiền giúp đỡ từ dòng Nữ Kinh sĩ Augustin, cha
Cassaigne đã cất lên một nhà nguyện khang trang và sau đó một trường sơ cấp cho
họ đạo mới lập. Trường khai giảng năm 1938 với 30 học sinh.
Năm
1939, nhiều người Cơ Ho Xrê trong các làng Thượng sâu hơn tin đạo: làng K’Long
Tran và Dong Dor có 60 tân tòng. Theo yêu cầu của 6 đại diện Thượng, cha
Cassaigne và anh K’Brai, phụ tá giáo lý, đến thăm các làng ở chân núi Yan Doan:
Kulbum, Kala, B’sourt, Kort, R’hangung, Drou Tou, và chọn Kala làm nơi cất lên
một chòi tranh làm trạm giáo lý mà cha đến với họ hằng tuần.
Họ đạo
Công Hinh có 170 người, trong lúc họ chính Di Linh chỉ có 106 người. Trong các
năm 1940-1942, đợt di dân đầu tiên có thêm 20 gia đình từ miền Bắc vào, đợt sau
có 81 gia đình, trong đó có 70 gia đình Công giáo. Năm 1940, số giáo dân là 220
tại Công Hinh và 220 tại Di Linh. Năm 1941, họ đạo Công Hinh trở thành giáo xứ
B’lao với 350 giáo dân trong 40 gia đình.
Ngày
24-2-1941, một điện khẩn do Khâm sứ Toà Thánh P. Drapier ký tên gửi đến Di Linh,
thông báo việc Toà Thánh chọn cha Cassaigne làm giám mục. Ngày 23 đến 26-3-1941,
Đức cha mới ban Thêm Sức cho tất cả 52 bệnh nhân phong, 84 người ở Di Linh và 22
người tại Công Hinh.
Dưới
thời cha xứ Cassaigne ở Di Linh, một cộng đoàn Công giáo hình thành với một nhà
thờ, 795 giáo dân. Ngày 24-6-1941, cha Cassaigne thụ phong giám mục tại nhà thờ
chính toà Sài Gòn.
Sau năm
1954, cuộc di dân từ miền Bắc lên các phần lãnh thổ thuộc Cao Nguyên Nam Trung
Bộ đã thay đổi tình hình Giáo hội tại địa phương này. Năm 1960, giáo phận Đà Lạt
được thành lập. Khoảng giữa năm 1963, giáo phận Đà Lạt có 46.305 tín hữu (Kinh
và Thượng), với 43 linh mục (3 nước ngoài và 40 Việt Nam) trông coi.
Hoạt
động truyền giáo nơi các DTTS trong giáo phận không được ghi nhận một cách đầy
đủ và liên tục cho từng giáo điểm.
Sau
những năm khó khăn kể từ ngày 30-4-1975, trong những năm 1988-1997 và cho đến
nay, một phong trào tin nhận Đạo Chúa cũng phát triển mạnh mẽ nơi các anh chị em
dân tộc trong giáo phận Đà Lạt như tại nhiều giáo phận khác có anh chị em dân
tộc ít người cư ngụ.
Năm
1995, giáo phận có 1 giám mục, 57 giáo xứ và 39 giáo họ, với 118 linh mục (83
triều, 35 dòng), 488 tu sĩ phụ trách coi sóc 190.026 tín hữu (145.473 Kinh và
44.553 DTTS). Năm 2000, giáo dân tăng tới lên 250.669 người, trong số đó có
64.261 người DTTS.
Cộng
đồng Công giáo người Hoa ở TP. Hồ Chí Minh
Tại Tổng giáo phận TP. Hồ Chí Minh, những anh chị em tín hữu
người Hoa tin đạo đã lập nên hai cộng đoàn: một tại Chợ Lớn (họ đạo Thánh
Phanxicô Xaviê với 2.500 giáo dân) và một tại Sài Gòn (họ đạo Hoà Bình với 80
giáo dân). Trước năm 1975, với sự trợ giúp của một hội dòng từ Bỉ, cộng đồng tín
hữu người Hoa đã lập nên hai trường trung học khá nổi tiếng, trường Thái Bình
Dương Tự Do (đường Nguyễn Trãi) và trường Minh Viễn (đường Nguyễn Tri Phương),
quy tụ hàng nghìn học sinh người Hoa theo học.
Số người
Hoa trong cả nước hiện có hơn 900.000 người, trong đó trên một nửa tập trung ở
TP. HCM. Số còn lại rải rác ở các nơi khác: giáo phận Xuân Lộc có khoảng 100 gia
đình, giáo phận Đà Lạt, Cần Thơ có khoảng 30 gia đình.
Người
Hoa có tín ngưỡng cao, biểu lộ qua việc đến cúng giỗ tại các chùa vào những ngày
rằm mỗi tháng. Họ sống gắn bó với nhau trong các bang hội để giúp nhau làm ăn
sinh sống. Mỗi lần hội họp, họ có thói quen cúng giỗ trước tượng Thần-Phật. Điều
này đã khiến nhiều người Hoa ngại ngùng theo đạo Công giáo vì nghĩ rằng theo đạo
là phải cắt đứt với những lễ nghi ấy, cũng có nghĩa là cắt đứt việc liên hệ với
bang hội và chắc chắn họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Các
dân tộc thiểu số ở miền Bắc
Các nỗ lực truyền giáo cho các DTTS ở phía Bắc đã diễn ra khá
chậm so với các dân tộc ở phía Nam. Điều này do những nguyên nhân chung: khác
biệt ngôn ngữ, tập quán phức tạp, địa bàn cư trú khó lui tới, điều kiện khí hậu
và môi sinh không mấy thuận lợi, thiếu những người chuyên trách, và vùng DTTS cư
ngụ có khi là những vùng căn cứ địa kháng chiến. Một số nơi được truyền đạo
thường là do một số các linh mục tuyên uý Công giáo. Các cha mang quân hàm sĩ
quan quân đội Pháp làm việc cho các đơn vị quân đội hay cơ quan có nhiều tín hữu
Công giáo, rồi nhân đó mở mang việc truyền giáo cho các DTTS chung quanh. Điều
này dễ gây ra những hiểu lầm, nghi kỵ.
Một số
người Mường và Thái ở vùng Hoà Bình hay Lai Châu cũng như người Nùng, người Hoa
ở vùng biên giới (Hòn Gay, Móng Cáy) thuộc Quảng Ninh cũng đã biết đến đạo Chúa
và tin theo. Rất nhiều người DTTS thuộc các giáo phận Hưng Hoá, Lạng Sơn, Bắc
Ninh và Hải Phòng đã tin Chúa, nhưng hiện nay, chưa có số liệu thống kê chính
xác.
Vào
cuối thế kỷ XIX, các thừa sai Công giáo đã có những nỗ lực truyền đạo nơi người
Mường. Các tín đồ Công giáo người Việt thường đến sinh sống gần các trung tâm có
đông dân cư người Mường, làm nên một cộng đoàn dân cư riêng biệt. Dần dần, qua
tiếp xúc với người Công giáo, nhiều người Mường bắt đầu tin đạo. Làng Mường nào
có đủ số tín hữu Công giáo có thể xoá bỏ vai trò tín ngưỡng cổ truyền của các
thổ lang sẽ thành làng Công giáo toàn tòng. Trên lý thuyết, khi thổ lang tin đạo
thì cả làng tự động theo đạo, nhưng biến cố này chỉ xảy ra một lần ở giai đoạn
truyền đạo ban đầu. Do đặc điểm này, các thừa sai ban đầu có lúc chú trọng đến
việc truyền đạo cho những người có uy thế trong xã hội Mường. Tuy nhiên, dù
trong làng có nhiều người tin đạo, thổ lang cũng không nhất thiết tin đạo.
Một số
người trong các dân tộc này đã di cư vào Nam sau Hiệp định Genève năm 1954, đến
định cư ở Tây Nguyên hay Sài Gòn.
Trong
các DTTS ở phía Bắc, số tín hữu đông nhất lại là người H’mông (Mèo) cư trú ở
vùng Sapa.
Từ năm
1888, sau khi đến Sapa, nhận thấy đây là một vùng có khí hậu ôn đới và cảnh quan
giống như tại châu Âu, người Pháp đã xúc tiến ngay dự án biến Sapa thành một nơi
nghỉ mát ở phía Bắc giống như Đà Lạt ở phía Nam.
Năm
1905, một cơ sở Công giáo bằng gỗ và đá đã được xây dựng ở ngay thị trấn Sapa,
gồm một nhà thờ và một nhà xứ, vừa dùng làm chỗ ở cho cha xứ vừa làm nơi giảng
dạy giáo lý và hội họp. Cha Savina Vị, linh mục tuyên uý mang quân hàm đại uý,
được cử đến để lo về sinh hoạt mục vụ cho các quân nhân và viên chức làm việc
tại Sapa. Được phép của viên Công sứ Pháp tại Lào Cai, cha Savina đã bắt đầu
tiếp xúc với các anh chị em DTTS.
Cha học
tiếng H’mông, tìm hiểu tâm lý, tập quán và nếp sống văn hoá của họ. Năm 1921,
sau nhiều vất vả gian lao, cha đã sớm thu lượm được kết quả: cả gia đình Má A
Thông ở thôn Hang Đá (xã Hầu Thào ngày nay) tin đạo. Gia đình A Thông trở thành
một hạt nhân giới thiệu Tin Mừng cho các gia đình khác. Con rể Má A Thông là Lồ
A Tính, cư ngụ tại Lao Chải, cùng với bốn gia đình khác sớm trở thành tín hữu.
Ngay năm sau, một nhà nguyện nhỏ đã được dựng lên tại Lồ Lao Chải làm nơi sinh
hoạt và học hỏi giáo lý. Với sựï hợp tác của hai toán thừa sai người H’mông từ
Vân Nam sang, trong hai năm 1924-1925, đã có thêm 20 gia đình tòng giáo. Cho đến
đầu thập niên 1940, trong vùng đã có 33 gia đình H’mông tin đạo rải rác trong 11
làng khác nhau.
|