GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


_READMORE
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 29
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 029
 Lượt tr.cập 055490686
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Diễn đàn Giáo Phận Vinh 25.04.2024
DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH :: Xem chủ đề - Qua Cá»­a Thần Phù (Truyện ký: Tôi Đi Tu)

 Chào mừng bạn đến với diễn đàn GIAOPHANVINH.NET


 Xem bài chưa có ai trả lời 
Đăng ký làm thành viênĐăng ký làm thành viên 

gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Truyện, ký, tiểu thuyết, Ä‘oản khúc... Chuyển đến trang 1, 2  Trang kế
 Bạn đang theo dõi chủ đề ở chuyên mục : Truyện, ký, tiểu thuyết, Ä‘oản khúc... 
Người đăng Thông điệp
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: Qua Cá»­a Thần Phù (Truyện ký: Tôi Đi Tu) Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

QUA CỬA THẦN PHÙ (TRUYỆN KÝ: TÔI ĐI TU)



Tác giả: Đường Phượng Bay

LỜI TỰA


Tôi biết Đường Phượng Bay từ lâu rồi. Chúng tôi như đã cùng dắt tay nhau bước vào đường tu, qua nhiều cảnh thăng trầm cuộc sống. Hôm nay chúng tôi lại càng hiểu nhau hơn với những buồn vui và đổi thay lớn lao của đất nước.

Đường Phượng Bay muốn giới thiệu đời tu, ở đây được tiêu biểu qua chính con đường mình đã và đang đi, với hình ảnh cửa biển Thần Phù, một thắng cảnh non xanh nước biếc của tỉnh Thanh Hoá, có động Từ Thức và Bạch Ác nổi danh. Bởi cửa biển này hay gây nhiều phong ba bão táp, nên thuyền bè qua lại lắm phen gặp nguy hiểm bất ngờ.

Đường Phượng Bay chọn đề tên cho tập truyện ký là QUA CỬA THẦN PHÙ, dựa theo câu phong dao khá phổ thông tại miền Bắc:

Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Và dĩ nhiên tác giả tin chắc người đọc sẽ dễ dàng nhận ra cái dụng ý của mình.
Hân hạnh giới thiệu QUA CỬA THẦN PHÙ với quý bạn và mong mọi người gặp được ở đây một ý nghĩa đặc biệt, cách riêng cho những tâm hồn muốn tìm hiểu đời tu.

Saigon, cuối thu Ất Mão
L.M. Đào Đức Điềm

--------------------------------------------------------------

MỤC LỤC

1. Tu Là Cội Phúc Tình Là Giây Oan
2. Ngày Xưa Còn Bé
3. Hạt Giống Nẩy Mầm
4. Đường Dài Khởi Sự
5. Tà Áo Đen Giữa Đô Thành
6. Giữa Lòng Giáo Hội Chuyển Biến
7. Khung Trời Thần Tiên
8. Những Chặng Đường Tiến Lên
9. Lính Mới Ra Lò
10. Một Viễn Tượng Mịt Mờ

---------------------------------------------------------- -------
Nguồn: dunglac.org


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 1. Tu Là Cá»™i Phúc Tình Là Giây Oan Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

1. TU LÀ CỘI PHÚC TÌNH LÀ GIÂY OAN


Tác giả Nguyễn Du, trong tập Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều), đã mượn lời sư Giác Duyên để phát biểu như trên, cơ hồ muốn đề xướng một triết thuyết về nhân sinh. Triết thuyết này đã vô tình đi vào đời sống và tâm thức dân gian qua bao thế kỷ. Quả thật, người ta đã thuộc lòng câu trên đây như thuộc một đoạn ca dao phổ thông.

Nhưng, thật là buồn: hình như đa số đã hiểu lầm tư tưởng của Tố Như tiên sinh khi họ cứ đòi hiểu TU phải là xuất gia, phải vô chùa, phải cạo đầu cắt tóc để mặc vào bộ áo nâu xồng. Thế là tác giả Vân Hạc Văn Hoè đã một lần phải lớn tiếng thanh minh cho Nguyễn Du, nói rằng TU đây là tu sửa đức hạnh, tu chí làm ăn, tu tâm luyện tính, ở theo đạo đức và siêng việc chức nghiệp. Đó là cội nguồn của hạnh phúc, là gốc rễ của mọi may mắn và sung sướng trên đời.

Dĩ nhiên ta phải đồng ý và cụ Vân Hạc để thấy trắng đen rõ mười mươi. Tác giả tập 'Truyện Kiều chú giải' còn phân tích thêm rằng, theo một khía cạnh nào đó, chữ TU đây chỉ là ngược lại với chứ TÌNH bởi vì TÌNH thường nặng về tình cảm và nhẹ về đạo lý. Do đó TÌNH thường là mối giây oan nghiệp buộc lấy mình và là căn nguyên của nhiều tai hoạ, lầm lạc.

Có lẽ cũng để phụ hoạ với cụ Vân Hạc mà ông bà chúng ta vẫn thường đọc:

Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.


Cái lý do người bình dân thường hiểu đi tu là phải lìa xa cõi 'tục' là vì sống giữa cõi tục, cái chuyện tu thân luyện đức được coi là quá khó, khó đến độ như thể vô phương thực hiện.

Đã đành nhân chi sơ tính bản thiện, nhưng dẫu tính có thiện, lòng có quảng đại khoan dung mấy đi nữa, mà tháng năm thường xuyên phải va chạm với những chuyện tranh chấp cỏn con và triền miên lăn lộn trong những cái ham hố tầm thường, đã mấy ai giữ được tâm tư không bị xao xuyến, giao động!

Để rồi, suy hơn tính thiệt, một số người đã tìm cách thoát tục.

Ở Việt Nam, đạo Phật đã mở đường cho giải pháp 'thoát ly' này bằng những ngôi chùa sẵn sàng mở cửa từ bi cho mọi giới.

Nhiều kẻ xuống tóc đi tu vì từ lâu vẫn ấp ủ một cuộc sống thanh cao huyền nhiệm hay bởi say mê đạo pháp thâm sâu của đấng Như Lai.

Nhiều kẻ lại muốn xuất gia lên chùa chỉ vì thán phục vị Hoà thượng trụ trì với đức độ và tài năng trổi vượt. Huyền thoại về những ngôi chùa nổi danh với các bậc thiền sư hiền từ nhưng võ nghệ rất cao cường, theo mẫu mực phổ thông bên Trung quốc, vẫn còn được nhắc đến trên cửa miệng dân gian.

Nhiều kẻ khác muốn đem thân lên nương náu cửa thiền chỉ vì chuyện đời quá éo le, hoặc tình duyên quá phũ phàng với họ. Truyện tình 'Lan và Điệp' đã từng là một ví dụ điển hình đến độ gây xót thương xúc động, và giới văn nghệ sĩ đã không ngớt lấy làm đề tài sáng tác. Nhà văn Khái Hưng với 'Hồn Bướm Mơ Tiên' cũng đưa ra trường hợp đắng cay não lòng của 'chú tiểu’ Lan phải ẩn thân nơi chùa Long Giáng Bắc Ninh.

Đại để cái ý nghĩa Đi TU bên Đông phương mình là như thế. Người Nhật Bổn hay Trung Hoa cũng không khác là bao nhiêu.

Chữ TU nghiễm nhiên phải kèm theo chuyện xuất gia. Nó lại thường mang ý nghĩa giải thoát, tiêu cực.

Các nước bên Tây phương, được thấm nhuần tư tưởng Thiên chúa giáo, hầu hết có cái nhìn tích cực hơn về đời người. Ở những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Ky Tô giáo, việc bỏ nhà đi tu được coi như rất hoạ hiếm. Dần dà, tư tưởng tu đức thời trung cổ đã nhào nặn nên một số nhà ẩn sĩ, và rồi những vị 'thánh sống' thời danh đã quy tụ được nhiều môn đệ, lập thành những tu viện nhằm giúp nhau tu thân tích đức. Ngày sống của họ chỉ là liên tục cầu nguyện, chiêm niệm, hát xướng thánh vịnh và cùng làm việc chân tay.

Với thời gian, các tu viện này có một chỗ đứng vững vàng trong hệ thống tôn giáo, để rồi người ta đánh giá các tu sĩ rất cao, coi họ như những vị anh hùng trong việc làm vinh danh Thiên Chúa và xây dựng 'Nước Trời' ngay tại trần gian này.

Đã có một thời, người ta coi nhẹ những sinh hoạt thế tục và đề cao các lời dạy dỗ cách ngôn của sách thánh Cựu ước : Mọi sự chỉ là phù vân! Rồi nữa, họ thực hành theo đúng nghĩa đen lời khuyên của Đức Ky tô: Nếu các con muốn nên trọn lành, hãy về bán mọi của cải sản nghiệp rồi phân phát hết cho người nghèo và đến theo làm môn đệ ta.

Cũng có một thời, người ta dùng tập 'Gương Chúa Giê Su’ làm sách gối đầu giường để rồi còn đi xa hơn chính tác giả là Thomas Kempis trong việc tuyệt đối chú tâm để lo ăn chay đánh tội: Khoa tu đức chỉ toàn là hy sinh, hãm mình, thập giá, khiêm cung, chuẩn bị chết lành, khinh chê của đời, xa lánh trần gian. Kết quả là thấy xuất hiện những vị thánh như Si Mong Cột sống trọn đời trên một cột đá lửng lơ giữa trời!

Khuynh hướng tu đức 'hãm mình từ bỏ' đó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hàng giáo sĩ là giới có bổn phận thường xuyên tiếp xúc để hướng dẫn sinh hoạt tinh thần và tôn giáo của dân chúng. Người ta bắt đầu lên tiếng đề nghị các Giám mục và Linh Mục nên sống độc thân, vì bậc độc thân được coi là cao hơn bậc sống đôi bạn, nhất là bởi thấy chuyện gia đình vợ con dễ làm phiền toái cho công việc phục vụ Giáo hội đắc lực hoàn toàn.

Thế là các vị Tư Tế của thời Tân Ước, dầu muốn dầu không, cũng được mời đi vào lối sống mới: Ngoài hai lời khấn hứa vâng phục bề trên và sống đời đạm bạc khó nghèo, các ngài còn phải sẵn sàng tình nguyện giữ độc thân cho tới cuối đời.

Người ta vẫn biết rằng ngay cả Đức Giê Su lúc còn sinh thời đã chưa một lần lên tiếng đề cập đến chuyện này như một đòi hỏi, một điều kiện của hàng tư tế. Trong số mười hai vị tông đồ tiên khởi của những ngày sáng lập Giáo hội, chỉ có một mình ông Gio An là tự ý sống độc thân. Và rồi, suốt bao nhiêu thế kỷ, chính ngay các vị Giáo Hoàng cũng có gia đình vợ con như mọi người khác. Giáo Hoàng Hormisdas ở thế kỷ thứ sáu, theo sử sách kể lại, còn là cha đẻ của Giáo hoàng Siverius nữa là khác!

Nhưng rồi việc giáo sĩ độc thân trở thành một trào lưu và lối sống mới đi vào luật lệ. Người ta trưng lời Phúc âm nói rằng làm môn đệ Chúa (hiểu là các giáo sĩ) tuy phải sống ở giữa đời, nhưng không được giống đời. Ai nấy tin tưởng rằng những kẻ hy sinh việc thê nhi gia thất cũng như tài sản lỉnh kỉnh sẽ được ơn trên ban thưởng gấp trăm, mà ban ngay từ cõi đời này.

Thế là, dù bên Đông hay bên Tây, dù bi quan hay lạc quan, dù xuất thế hay nhập thế, người đời nghiễm nhiên hiểu TU là ĐI TU, là hy sinh chuyện gia đình, là chấp nhận một đường sốngkhác biệt với đồng loại.

Triết gia Kim Định đã có lần lên tiếng nhận xét rằng sớ dĩ đi tu khó là vì nguyên chữ ĐI đã nói lên một quãng cách phải đi mới tới. Còn chuyện TU thì luôn tạo cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược của lý giới và trần giới trong chính tâm tư mình. Thế là có cái nhị nguyên đối kháng, bắt chọn một bỏ một, thành ra khó khăn, đòi hy sinh lớn lao và luôn bao hàm ý nghĩa 'giết chóc', cái ý nghĩa của chia ly từ bỏ, quen gọi là 'ly gia cắt ái'.

Nói chung, theo bên Thiên Chúa giáo, đi tu được coi là một chuyện dấn thân can đảm, một quyết định trưởng thành sau khi đã tìm hiểu đắn đo, khác hẳn đa số các trường hợp mà ta thường gặp ở bên Đông phương, ít ra nơi quảng đại quần chúng thường hiểu biết về việc đi tu như một trốn chạy trần đời, mong đạt niềm giải thoát nội tâm, dẫu rằng bên môn phái Đại Thừa nhà Phật về sau ráng đẩy mạnh và khích lệ việc nhập thế giúp đời.

Đức Phật Thích Ca chưa một lần lên tiếng kêu gọi các Phật Tử bỏ nhà đi tu như một giải pháp chắc ăn để tới Nát Bàn.

Đức Giê Su, khi lập Giáo hội, cũng không hề chính thức đề cập tới một lơi sống nào khác hơn cuộc sống gia đình bình thường.

Nhưng tiến trình tôn giáo đã phát sinh những sáng kiến và thể thức mới mà một số tín hữu tin là có khả năng giúp con người tiếp xúc thường xuyên và hữu hiệu hơn với cõi linh thiêng.

Chẳng may, lịch sử đã để lại bao nhiêu chuyện thương tâm đáng tiếc hay những gương xấu đau lòng liên hệ đến nhiều cá nhân đã vụng đường tu hay chọn lầm lối đi dẫn vào chốn thiền viện. Nhưng cũng một lịch sử ấy đã chứng kiến vô số những vị chân tu nức danh tài đức, gây ảnh hưởng cao đẹp cho bao nhiêu thế hệ. Bên Việt Nam mình, một thiền sư Vạn Hạnh đã có thuở lừng vang chẳng những về đức độ cá nhân, mà còn về những công trạng đóng góp vào việc ích quốc lợi dân. Còn bên Tây phương thì không kể sao cho hết tên tuổi những vị tu hành, dù đã được phong thánh hay chưa, đã từng gắn liền với việc bảo tồn và phát triển văn hoá cũng như nền văn minh của thế giới. Hình ảnh một Bênêđictô viện phụ đã từng ngự trị trong tâm trí thế giới Âu tây có lẽ suốt từ thời trung cồ đến cận kim. Bóng dáng một Phan Xi Cô khó nghèo cơ hồ đã đem lại bầu khí tươi mát an hoà cho cả thế giới, và rồi gần đây, một Vincent de Paul của lớp dân nghèo, một Don Bosco của giới thanh thiếu niên, một Damien của đám người phong cùi xấu số, và ngay cả hôm nay nữa, một mẹ Têrêxa bên xứ Ấn Độ xa xôi... , nhất nhất đều gây kinh ngạc lâu dài cho người đời muôn thuở.

Ở đây, người ta nhìn ra được ý nghĩa của chuyện 'chân tu’.

Chẳng Chúa Phật nào bắt người ta đi tu, nhưng một khi nhận thấy rõ ĐI TU là con đường tắt để tìm về lý tưởng đạo giáo, người ta sẽ có đủ lý do để hoan hỉ lên đường.

Tôi là người cũng có một đạo giáo để kính tin trong hồn. Thượng Đế của tôi, Thiên Chúa của tôi đã ngự trị trong tâm hồn tôi từ thuở lọt lòng mẹ. Tôi đã không có cái niềm tin nồng nhiệt của những vị Tử đạo ngày nào. Tôi cũng chưa có tâm tình say mến nóng hổi của những vị Tông đồ xông pha sương gió truyền giáo ngàn phương. Cho đến hôm nay tôi vẫn thấy mình yếu hèn thờ ơ như chưa được một lần chỉ dạy cho bài học can đảm dấn thân. Tháng ngày của tôi vẫn mãi là những ngày tháng của lo sợ rụt rè, của ngờ vực toan tính. Tôi cũng đang tập tễnh cất bước theo Chúa, nhưng chỉ muốn làm những tên lính đồn trú nơi hậu phương an toàn, mà chưa một lần dám xung phong đi trước giữa lằn tên mũi đạn. Tôi giao tiếp với Chúa giống như người lái buôn mặc cả hàng hoá, lúc nào cũng sợ lỗ lã thua thiệt, mới cho đi một chút xíu mà tôi đã nghĩ là nhiều. Mới cố gắng một tí teo nhưng tôi đã cho là quá đủ.

Thế nhưng, đã một lần trong đời tôi lắng nghe được một tiếng gọi như thầm nhủ bên tai. Tôi đã phần nào hiểu được nội dung và ý nghĩa của lời gọi và rồi tôi đã ra đi. Tôi đã theo dấu chân của tổ phụ Abraham xưa một lần bỏ quê hương lên đường tới nơi Chúa muốn ông tới, dẫu rằng tôi không có lấy một phần nhỏ đức tin kếch xù của ngài tổ phụ.

Lên đường theo Chúa mà lúc nào lòng tôi cũng hoang mang như tâm trạng chàng Kinh Kha lúc vượt sông Dịch Thủy qua Tần, dẫu rằng tôi chưa một lần có được cái hăng say cương quyết của người tráng sĩ nước Yên ngày nào.

Nhưng chẳng vì thế mà tôi ân hận đã chọn ĐI TU. Lý tưởng có lẽ còn xa mờ lắm, nhưng lúc nào cũng còn đó, để thách đố, để kêu mời.

Hỏi rằng mình có xứng đáng đi tu hay không thì tuyệt đối là tôi không đáng rồi. Nhưng nếu hỏi rằng phải chăng tôi chọn đi tu là để chạy trốn cuộc đời oan trái thì quả là không. Ngàn lần không. Cuộc đời luôn hiện ra đẹp và đáng yêu với tôi. Chẳng bao giờ tôi thấy có lý do để sợ hãi cuộc đời. Đã nhiều lần tôi nghĩ : Đời càng éo le và nhiều thử thách, mình càng nên đối diện và... thưởng thức cái thử thách éo le của đời.

Tôi nói thế vì quả thực cuộc đời xem ra chiều chuộng tôi lắm. Cơ hồ thứ gì mình cần và mong ước, đời cũng đem cho cả. Xuân, Hạ, Thu rồi Đông, mùa nào đến tôi cũng thấy cuộc đời hấp dẫn.

Tuy rất khoái thơ Tản Đà, nhưng đã có lúc tôi thấy ghét ông vì một lần ông lẩm cẩm viết bài thơ 'Đời đáng chán?'. Rất may, khi kết, ông đã ân cần xin bà con tái xét : "Nên chăng nghĩ lại kẻo lầm". Phải rồi, nhà thơ của sông Đà núi Tản ạ, nghĩ lại đi kẻo sẽ lầm to đấy! Đáng chán hay không đáng chán là tùy ở nơi hồn ta, trong tâm tư riêng rẽ của ta, chứ vô tình đổ vạ cho đời đáng chán thì thật oan quá!

Cũng bởi thế, tôi đã hứa với lòng rằng chẳng bao giờ sẽ bi thảm hoá đời mình bằng những lời khuyên nhủ có vẻ bi quan của ngài Thomas Kempis, cũng như không nên quá hồ hởi làm bạn với cái ông Qôheleth trong Cựu ước để ngày đêm cứ đem ra nghiền ngẫm mấy câu 'Đời chỉ là phù vân giả trá'!

Rồi các cụ Lão Tử, Lão Trang nữa đấy. Tôi hết tình kính trọng các cụ, nhưng nhất định tôi không bao giờ xin làm đồ đệ các cụ đâu. Có thể tôi chưa được hiểu các cụ cho thấu đáo, nhưng tôi chẳng cần. Chỉ nghe láng máng rằng các cụ chủ trương yếm thế, cần xa tránh đời, đã đủ làm tôi khó chịu rồi.

Tôi trộm nghĩ, dẫu cho đôi lúc ta thấy cuộc đời xuất hiện bằng cả mặt trái đi nữa, thì cái tâm tình phấn khởi cao đẹp trong hồn ta sẽ đủ sức để khoả lấp và bù đắp lại.

Tôi thú vị mỗi khi đọc tới truyện ông Vinh Khải Kỳ đã một lần làm cho chính đức Khổng Tử giật mình vì cái phong thái lạc quan khoan khoái của ông. Họ Vinh đã dạy tôi bài học 'tự sung sướng' khi ông bảo mình lúc nào cũng mãn nguyện khi thấy được sinh làm người cao quý hơn muôn vật khác, rồi lại được làm nam nhi chứ không là phận nữ (theo quan niệm cổ thời xưa) và lại là người mạnh khoẻ lành lặn chứ không ốm yếu tật nguyền.

Quả thật, tôi chẳng hề quyết định đi tu vì chán đời. Nếu nói rằng tôi đã lên đường đi tu bởi quá yêu đời thì chẳng mấy ai tin, và lại ra cái vẻ mình khoe khoang kệch cỡm, nhưng thực sự có đúng tí ti.

Tôi vẫn biết cuộc sống bình thường của một người tín hữu cũng là đường có thể đưa đến cõi thiên thai nát bàn hay thiên đàng vĩnh cửu, nhưng tôi đã nghĩ mình đi tu là để góp phần tích cực hơn vào việc xây dựng vững chắc con đường đó, cả cho tôi và cho người khác.

Tôi vẫn hiểu tu là cội phúc, đúng như ý nghĩa nguyên thủy của tác giả truyện Kiều: vẫn thấy cuộc sống hạnh phúc chỉ là kết quả của một đời chăm lo tu sửa đức hạnh và trau giồi tâm tính, cùng với việc chu toàn bổn phận và yêu thương tha nhân. Thế nhưng tôi đã chọn xuất gia đi tu để có dịp chia sẻ cùng tha nhân trong cố gắng tu sửa và trau giồi đó, để được dễ dàng mà gần gũi họ hơn, trong cái tiến trình yêu thương cao đẹp giữa người với người.

Tôi thấy rất thích thú khi được nhìn tận mắt và được thông phần bằng cả chính con người của mình. Do đó, tôi đã thấy như chính tôi được an ủi khi có dịp sẻ chia niềm ủi an cũng như trao gửi lời khích lệ, vỗ về.

Tôi biết mình chẳng cần phải được phong thánh trước rồi mới có quyền nói chuyện linh thiêng tâm hồn với người khác. Tôi cũng vốn tin rằng đường tôi đang đi sẽ bị vây phủ bằng nhiều chông gai thử thách, bị bao quanh bởi nhưng phút giây căng thẳng, chán chường. Nhưng một niềm tin nhỏ bé vẫn ngày đêm le lói trong tâm tư, để tôi vẫn giữ được bước chân khỏi xiêu vẹo hay qụy ngã.

Mỗi phút, mỗi giây, tôi vẫn ý thức rằng tu thì tu, nhưng cái tình nó chẳng hề ngưng quấy rầy và đe doạ kéo lôi cùng trói buộc tôi vào vòng oan nghiệp sai lầm. Câu phong dao vui vui nào đó của dân tộc vẫn hằng dội tiếng trong lòng tôi : Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Không biết ngày nào mới có thể nói được là mình đã khéo tu, nhưng các tấm gương vụng tu của một số đàn anh hay đồng nghiệp vẫn mãi là những bài học sống động trước mắt. Có lẽ cái đáng sợ hơn cả với tôi hôm nay là nghĩ rằng mình đã thực sự khéo tu, đã cơ hồ thành chánh quả. Cave ne cadat. Câu thành ngữ La Tinh này cũng như hệt lời dạy của sách thánh : Ai tưởng mình đứng vững thì sẽ ngã.

Đó là lý do để tôi không hề dám lãng quên bổn phận tu thân làm người trước khi bước ra đường với bộ áo nhà tu. Lời khấn hứa ngày thụ phong vẫn ngày đêm canh cánh bên lòng. Trách nhiệm phải nên toàn thiện thôi thúc tôi mỗi phút giây phải vươn lên hầu giúp anh em đồng loại được thêm thiện toàn.

Điều đó đòi tôi phải tìm ra chính con người của mình, nguyên vẹn, không điểm tô thêm bớt, để thấy rõ mình đang thuộc vào trạng thái nào trên bước đường tu thân. Mỗi buổi xét mình là mỗi buổi phải tủi hổ xót xa. Mỗi lần phanh phui là một lần cay đắng, ê chề. Biết bao lần thấy mình tiến được một bước ngắn rồi lại thụt lùi tới hai, ba bước dài.

Để đua tranh cùng bạn bè, để so tài với anh em, tôi đã nhiều phen sống như đóng kịch, diễn tuồng. Tôi đã từng đua đòi để dàn cảnh, để che đậy, mong được đôi tiếng khen lao, hay ít ra tránh khỏi bị chê bai bình phẩm. Hôm nay, tôi lại một lần phải phơi bầy cái TÔI để hiểu mình hơn và rồi nhận đinh rõ hướng mà đi.

Xuất gia đi tu nào phải là chuyện trẻ con. Đâu phải chỉ là một phút quyết định bốc đồng hay giỡn đùa theo bè bạn. Thực sự nó đòi tôi phải TU hai lần. Hay nói đúng ra, TU gấp đôi cái tiêu chuẩn của cụ Nguyễn Du, hầu mong có ngày nhìn được ... cội phúc.

Chỉ có như vậy mới giải thoát tôi và những người tôi giao tiếp khỏi vòng giây oan khốn khổ.

Bây giờ, tôi thấy có chút ánh sáng để lại hăm hở lên đường.



--------------------------------------
Tà ¡c giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 2. Ngày XÆ°a Còn Bé Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

2. NGÀY XƯA CÒN BÉ


Nhà Văn Duyên Anh đã viết một truyện với cái tựa đề như trên. Nghe nó hay hay, dễ thương quá. Tự nhiên thấy ông Duyên Anh cũng dễ thương lây, dễ thương như những mẩu chuyện tuổi thơ ngọt ngào tựa giòng suối của ông. Tôi thầm nghĩ chắc cái ông văn sĩ với cái tên gốc được bố mẹ đặt cho là Vũ Mộng Long ấy cũng đã sống một thời thơ ấu thật ngọt ngào; chứ không làm sao ký ức đã dồn lại để chồng chất lên ngòi bút của ông nhiều kỷ niệm của tuổi thần tiên như thế!

Tôi biết tôi không có được cái ngòi bút tuyệt diệu của Duyên Anh, nhưng tuổi thơ ấu của tôi chắc vẫn bám chặt vào tâm khảm tôi có thể còn hơn so với ông ấy nữa. Nó cũng ngọt ngào tươi mát, không phải vì thuở nhỏ gia đình tôi giàu có và tôi đã được đặc biệt nưng niu cưng chiều. Gần đúng khi phải nói ngược lại nữa là khác! Tuy nhiên, nó ôm ấp quấn chặt lấy cả quãng đầu đời tôi bằng những biến cố chỉ quên đi được khi xuôi tay nhắm mắt lần cuối.

Ngồi viết những giòng này mà tôi vẫn cứ sợ mình chẳng diễn tả được cho hết, cho đủ những ngõ ngách của tâm tư thời ấu thơ.

Kể chuyện TÔI ĐI TU, tôi muốn cũng là kể hết đời mình, bắt đầu từ những tháng ngày còn thơ bé, như một cố gắng phơi bày trọn vẹn tâm tư của cả một đời người.

Nói về mình thường là một điều kỵ. Có lẽ ai cũng ngại vì quả thật nó khó lắm, phức tạp lắm. Thế mà lúc này tôi chẳng thấy ngại thấy khó chi. Các cụ xưa hay bảo rằng đôi bạn thân thiết cởi mở cõi lòng cho nhau như người bóc chiếc bánh. Có gì mà phải đắn đo nghĩ ngợi. Tôi muốn ĐI TU là để sẻ chia với người khác. Tôi đâu có chọn đường tu kín trong rừng! Mà sẻ chia nào hơn là chia sẻ chính cuộc đời mình, trọn vẹn tâm tình, hết mọi buồn vui, dĩ vãng với hiện tại và tương lai. Tôi chẳng bao giờ dám mường tượng cái chuyện sẻ chia này rồi sẽ đưa tới đâu. Ngày xưa, trong những trang thư gửi cho tín hữu đó đây, thánh Phao Lô đã thành thật nêu lên những tấm gương sáng cao cả của chính ngài để rồi không ngần ngại lên tiếng :"Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Đức Ky Tô". Bây giờ, để tỏ hết lòng chân thành ra, tôi cũng muốn theo lối giãi bầy của Thánh Phao Lô, chỉ khác ở chỗ là tâm hồn tôi đang cách biệt trời vực với tâm hồn ngài, nếu là muốn khoe thì chỉ khoe được toàn những ý nghĩ ngông cuồng và các hành vi dại dột của mình. Người đọc có thể tìm ra chút lợi ích khi họ thấy cái ngông cuồng mà xa tránh cũng như cái dại dột để đề phòng.

Tôi chẳng nghĩ rằng mình làm vậy là do khiêm tốn. Trước sau chỉ dám tin vào chút chân thành từ đáy tâm tư mình, đề rồi hy vọng rằng dù những vị khó tính nhất cũng sẽ gật đầu xí xoá cho những hàng chữ đây. Như thế tôi được thêm vững dạ để tiếp tục kéo lê ngòi bút và bỗng nhiên thấy vui khác thường. Niềm vui cơ hồ ngập tràn trên đầu rồi lan xuống khắp thân thể. Tôi thấy mình giống như thân chủ của một bác sĩ phân tâm. Được nói ra, được kể hết về dĩ vãng cuộc đời, nhất là kể ra với người sẵn sàng nghe và đón nhận, cảm thông, ai mà chẳng thấy phấn khởi hân hoan! Cảm tưởng lúc này cũng cơ hồ giống như nơi một đứa bé đang kể chuyện cho má nó nghe. Còn sợ ở chỗ nào? Không lạc quan tin tưởng vì cớ chi?

Văn sĩ Duyên Anh kể thời bé thơ của ông ở miền Thái Bình, Bắc Việt. Với ngòi bút điêu luyện tựa ảo thuật, ông vanh vách kể tên những giòng sông, những ngọn đồi mà bao tháng ngày rong chơi đã làm ông mòn gót chân sáo tung tăng tận hưởng tuổi thơ.

Tôi cũng có nửa giòng máu Thái Bình trong người do họ ngoại tôi truyền cho. Ông bà ngoại tôi cứ bảo không bao giờ được quên hai tiếng Hưng Yên - Thái Bình. Đọc những sách truyện tuổi thơ của cái ông 'phù thủy văn chương' Vũ Mộng Long, tuy nhiều lúc tôi thấy mình cũng có tí ti hãnh diện... lây, nhưng thường thì tôi thấy cứ tức anh ách làm sao ấy! Có máu Thái Bình, mà có bao giờ được chiêm ngắm và đặt chân tới Thái Bình đâu! Miền Bắc ngày xưa ấy mà, vài chục cây số đã như là xa vạn dặm, nhất là lại ở vào những buổi giặc giã chiến tranh, mà mình lại mới chỉ là một... ông nhô con tít tắp chốn nhà quê!

Tôi xin kể tiếp nhé: Ông bà ngoại tôi vốn sinh trưởng tại làng Lê Xá, Hưng Yên. Vào những lúc cao hứng, ông ngoại tôi hay kể cho lũ con cháu nghe về lịch sử thời oanh liệt của vua Lê chúa Trịnh xa xưa, với những tháng năm huy hoàng 'thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến'. Hưng Yên được mô tả như nổi danh với phố Hiến phồn hoa, cùng với loại nhãn lồng độc nhất vô nhị. Về địa dư và hành chánh, qua các thời đại, chẳng rõ Hưng Yên và Thái Bình đã liên hệ khăng khít với nhau ra sao, nhưng về phương diện đạo giáo thì Thái Bình đã được chọn làm trung tâm của một giáo phận (có Giám Mục cai quản), bao gồm cả Hưng Yên ở trong đó. Riêng họ đạo Lê Xá thì hầu như toàn tòng là công giáo và được nổi tiếng là nơi xuất xứ của rất nhiều Linh Mục. Chả bao giờ tôi quên được những buổi tối mùa đông, bên ngọn lửa bập bùng đuổi xua băng giá, mắt tôi từng sáng lên khi nghe bà ngoại kể tới những dịp lễ vinh quy linh đình do cả xứ đạo tổ chức mừng những vị tân phong. Rồi những buổi lễ kính thánh quan thày Tô Ma, những dịp kiệu Sang Ti, những lần mở hội Tuần Thánh và nhất là những mùa Giáng sinh tưng bừng hoa nến.

Giữa cái thời huy hoàng của xứ đạo Lê Xá đó, ông bà ngoại tôi đã dắt díu nhau lên vùng Bắc Ninh để lập nghiệp, theo lời đề nghi của một vị Linh Mục già có liên hệ bà con đang được trao công tác thành lập một xứ đạo mới trên miền đất trung du Bắc Việt này. Vì được hứa chia cho đất đai làm ăn, nên ông bà ngoại tôi đành xa lìa Lê Xá mà hăm hở ra đi, tin tưởng rằng nơi phương trời mới cũng sẽ lại có nhà thờ, có lễ lậy, có lễ nghi cùng đủ thờ hội đoàn cho vui vẻ xóm thôn. Và thực tế là ước mơ của hai ông bà đã trở thành sự thật. Một họ đạo mới đã được thiết lập với cái tên là YÊN TẬP. Chẳng rõ cha già Lượng, vị sáng lập tân giáo xứ, đã có dụng ý gì khi đặt tên như thế. Lúc đó còn nhỏ tôi nào đã biết chi mà thắc mắc! Sau này, đôi lúc ngồi đoán mò rằng ‘nơi đây một số dân từ Hưng YÊN TẬP họp lại làm ăn' hoặc 'cứ YÊN ổn mà TẬP tành công việc mới'.

Xứ đạo Yên Tập đã nhận thánh An Tôn làm bổn mạng, để rồi cũng nối tiếp những lễ nghi linh đình, những hội hè trọng thể, tháng này qua năm khác. Cũng lại có nhà thờ đồ sộ, nhà xứ khang trang. Có ao cá Đức Bà rộng lớn. Có tháp chuông hùng vĩ. Có ruộng nhà chung thẳng cánh cò bay.

Bà con trong xứ phấn khởi xây dựng xóm làng. Ông bà ngoại tôi bỗng dưng trở thành... điền chủ. Công việc đồng áng phát đạt đưa tới cảnh có bát ăn bát để, có người làm người ở, và rồi, vào một buổi... đẹp trời nào đó, ông ngoại tôi bất ngờ được làng nước gọi là bác 'nhiêu’. Rõ thật buồn cười, ngay cả cho đến hôm nay, tôi chẳng hiểu bổn phận và quyền lợi của một ông nhiêu là như thế nào. Chỉ nhớ lại mình đã được nghe kể láng máng rằng từ ngày được khoác cái tước hiệu mới này, ông ngoại tôi tự động được miễn sưu thuế, tạp dịch và nghiễm nhiên trở thành người có vai vế trong xóm thôn.

An cư lạc nghiệp rồi, ông bà tôi dĩ nhiên phải nghĩ tới chuyện sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường. Thế là mẹ tôi ra đời trong cái khung cảnh tạm gọi là huy hoàng của gia đình và làng xóm đó. Khỏi phải nói, mẹ tôi được cưng như trứng, hứng như hoa. Gái đầu lòng, tuy chưa được lý tưởng như một mụn trưởng nam, nhưng cũng đủ gây niềm hân hoan lớn trong nhà ngoài ngõ, và đặc biệt cho ông ngoại tôi được bà con làng nước gọi là 'ông' nhiêu.

Tôi cứ nghĩ theo thông lệ ngày đó, dựa vào hoàn cảnh và nếp sống của ông bà ngoại tôi, có lẽ chả mấy mà ông tôi leo dần tới những nấc thang... thôn xóm khác như kỳ mục, tiên chỉ, hoặc ngay cả chức lý trưởng nữa không chừng. Ngặt một điều, ông tôi không may mất sớm, để lại cho bà ngoại tôi ba mụn con gái suông!

Tháng ngày cứ trôi, công việc làm ăn vẫn tạm khả quan, nhưng bầu trời tương lai như trở nên xám đục hơn. Bà ngoại tôi phải tần tảo thay chồng nuôi con, và rồi cố tìm vui nơi câu kinh ván lễ. Đã có một thời gian lâu, bà được đề nghị đặc trách chăm sóc đám nhi đồng nữ trong họ đạo với chức vụ quản giáo và được gọi (một lần nữa tôi lại chẳng hiểu vì sao) là bà 'trương'.

Rồi mẹ tôi lớn lên, không muốn cũng phải... cố lớn mau để phụ giúp bà ngoại. Cũng được kể là ngoan và hiền, nhưng mẹ tôi còn được coi là sắc sảo khá so với bạn bè cùng lứa tuổi. Chả gì cũng chính thức là gái... Bắc Ninh! Giống như nhiều thiếu nữ khác thời đó ngoài việc lo học thuộc những kinh kệ nhà thờ, mẹ tôi còn phải theo đúng 'mốt' để làm quen với những câu vè, những bài hát quan họ địa phương. Trai làng cũng ngấp nghé, nhưng ông tơ bà nguyệt lại nhiệm mầu đẩy đưa để chẳng được xe duyên với cậu nào trong xứ đạo. Số là, tuy chẳng mơ ước bóng dáng một anh trai... Biên Hoà đa tình xa lắc xa lơ nào đó, nhưng mẹ tôi bỗng để ý tới một chàng trai lạ mặt thỉnh thoảng dừng chân dự lễ tại nhà thờ giáo xứ. Kể lại chuyện tình duyên gia thất, lần nào mẹ tôi cũng chỉ nói là 'thánh ý Chúa định'. Và rồi việc phải tới đã tới, đám cưới mẹ tôi đã diễn ra, rưng rưng giòng lệ mừng tủi của đôi trai gái không hẹn mà hò.

Bố tôi đấy, một thanh niên mồ côi cha mẹ, sớm vào đời lập thân. Từ phố thị Bắc Ninh, bố tôi theo mấy người thân thuộc tập tễnh xuôi tàu xuống Phả Lại học đi buôn. Giòng nước sông Cầu đã cơ hồ cuốn lôi và hun đúc mộng giang hồ của bố tôi từ thuở còn hai bàn tay trắng. Có lẽ trên đường chở hàng về bán qua ngả Đáp Cầu, nơi có nhà máy giấy nổi tiếng xứ Bắc, bố tôi đã mấy lần dừng chân tại xứ đạo Yên Tập đang thời sầm uất, vừa để kiếm mối bán hàng, mà cũng vừa để tìm... bạn tri âm. May sao, bố tôi cũng là kẻ ngoan đạo, nên nhà thờ đã vô tình trở nên chốn hạnh ngộ đi vào... lịch sử đời tôi.

Đương nhiên, Yên Tập đã trở thành quê hương mới của bố tôi và cái nghề buôn bán phiêu lưu cũng được chấm dứt. Bắt đầu cuộc sống trách nhiệm gia đình, bố tôi đã thấy vui bên thửa ruộng vườn rau, trong cái cảm nghĩ rằng chim đã đậu được trúng chỗ đất lành. Mà cũng chính vì tin đây là chốn đất lành nên một khi đã dừng lại cánh chim giang hồ cũng cố gắng sống cho thật lành. Do đó, làng nước cơ hồ thương bố tôi lắm. Ngay cả mấy chàng trai cưới hụt mẹ tôi, thay vì đố kỵ ghen tức, đã rủ nhau tới làm thân làm quen với bố tôi và thường xuyên chén tạc chén thù rất là tương đắc.

Về phần đời, bố tôi không có cái cơ may được làm chủ nhiều ruộng như ông ngoại tôi, mà chắc cũng chẳng hề dám mơ tưởng đến chuyện được gọi là bác nhiêu, bác phó; nhưng bố tôi lại rất được tín nhiệm về phần đạo. Vừa về làm... lính mới ở đây được ít năm mà đã được đề cử làm quản giáo coi đồng nhi mấy khoá liền, đề rồi cuối cùng giữ chức Trùm Họ, chức vụ cao nhất trong xứ đạo Về sau, mỗi khi có dịp kể chuyện về bố tôi, mẹ tôi thường mô tả như một người chồng rất hiền lành gương mẫu. Tôi chưa một lần dám lên tiếng hỏi xem mẹ tôi có hay 'bắt nạt' bố tôi hay không, nhưng tôi cứ mơ hồ mường tượng như thể đã có một ít lần như thế.

Chẳng biết bởi được gần Chúa gần cha, hay vì đất trời xui khiến mà bố tôi đã ngoan đạo khác thường. Kinh lễ không hề bỏ một ngày. Việc nhà thờ lúc nào cũng là ưu tiên hơn việc nhà. Giáo dục con cái thì luôn giữ nguyên tắc 'lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào ích chi!'

Vì ngoan đạo theo mẫu mực bảo thủ hoàn toàn, bố mẹ tôi đã sinh hạ được cả thảy bảy người con, ba trai và bốn gái. Con cái là phúc lộc Chúa ban mà! Trời sinh voi, Trời lại sinh cỏ, lo chi của ăn phần xác! Và rồi cứ thế, bố tôi tối sớm làm bạn với ruộng đồng, chẳng quản nắng mưa thời tiết, mong chăm sóc nuôi nấng đàn con.

Xui làm sao! Giữa thời vất vả làm ăn của gia đình tôi như thế, đất nước lại lâm cảnh bom đạn chiến tranh và trớ thêu thay, thôn xóm tôi lại ở vào giữa vùng dầu sôi lửa bỏng. Yên Tập nằm đúng địa điểm giáp ranh giữa Bắc Ninh và Bắc Giang, mà có lẽ vì cũng là một vị trí chiến lược, nên bất ngờ được chia về phần đất tỉnh Bắc Giang. Giòng sông Cầu hiền hoà chảy xuôi hướng đông nam để rồi hợp với hai sông Thương và Lục Nam tạo thành giòng sông Thái Bình đổ ra bể, sau khi giao nối với giòng sông Bạch Đằng lừng danh thuở nào. Tất cả tạo nên một đia thế đặc biệt cho mọi hoàn cảnh lịch sử. Chả biết có ai trong làng xóm tôi đã một lần nghĩ tới niềm hãnh diện là mình thuộc về miền đất của nhà anh hùng Yên Thế Hoàng Hoa Thám, được mệnh danh là con cọp xám Trung du Bắc Việt hay không, nhưng bên ngoài thì ai nấy thấp thỏm lo âu vì phong trào Việt Minh lúc đó đang mượn địa thế của vùng Bắc Giang mà hoạt động chống Pháp, mong cướp được chính quyền.

Vô hình chung, dân chúng Yên Tập trở thành nạn nhân của hai phe tranh chấp. Tuy chưa công khai chủ trương vô thần, nhưng Việt Minh đã dần dà lòi cái đuôi Cộng Sản đỏ lòm, nên bà con Yên Tập toàn tòng công giáo đã bắt đầu biết mình phải đứng về phe nào. Ngặt một nỗi, phía Quốc gia, đang được lồng khung trong chính quyền bảo hộ, không mạnh đủ để giữ gìn xóm thôn khỏi bị Việt Minh xâm nhập, nên nhiều đêm mấy ông du kích, cán bộ cứ lảng vảng vào làng. Thanh niên và đàn ông bị ép đi 'dân công' chống Pháp. Thiếu nhi thì bắt đầu bị tuyên truyền chủ nghĩa tam vô, đấu tranh giai cấp.

Vào những ngày cuối năm Đinh Hợi, sau đợt dân công nặng nhọc trên sông Cầu (lại giòng sông Cầu trớ trêu!), bố tôi đã bị sốt ngã nước nặng và đột ngột qua đời vào đúng mồng bốn tết Mậu Tý. Dĩ nhiên là mẹ tôi khóc hết nước mắt. Lúc này tôi còn quá nhỏ nên chưa rõ chuyện sầu buồn, chỉ được nghe kể lại là cứ nằng nặc đòi 'mặc' khăn khi thấy gia đình quấn khăn tang trắng. Mẹ tôi cũng kể rằng, trước đó vỏn vẹn có sáu tháng, bố tôi cũng đã tự nhiên thấy người mất sức hẳn đi và bắt đầu như tiên đoán những tai hoạ ghê gớm sắp xảy ra. Mẹ lại xót xa cho biết cả mấy tuần lễ liền, bố tôi ngày thì lo làm ăn đồng áng, đêm đến lại phải theo đoàn dân công ra bờ sông thực hiện những công tác nặng nhọc, cụ thể nhất là đóng những chiếc cọc gỗ dài xuống lòng sông để cản trở tàu chiến Pháp qua lại.

Tôi quên chưa kể tới việc tử thần đã cướp mất người anh trai lớn của tôi từ lúc mới được hơn một tuổi. Hai người chị đầu lúc đó cũng chỉ biết chảy nước mắt khi thấy mẹ khóc. Đến ngày bố tôi qua đời, tôi còn nhớ rõ lắm, người chị cả đã tỏ ra khá chững chạc, bắt đầu biết thay mẹ an ủi và chăm sóc các em. Anh chị em chúng tôi đều may mắn cắp sách đến trường đầy đủ khi tới tuổi đi học. Tiếc một điều là sống vào thời chiến, lại chẳng may sinh trưởng ở một nơi đầu tên mũi đạn, công việc làm ăn cũng như chuyện mở mang phát triển cơ hồ cứ bị gián đoạn hoài. Tổ chức tôn giáo của xứ đạo cũng bị ảnh hưởng trầm trọng và dân tình tự nhiên hoang mang đến cực độ.

Cho đến một buổi chiều đầu thu 1950, khoảng ba năm sau ngày bố tôi nằm xuống, có lẽ qua trung gian của toà Giám mục Bắc Ninh, quân đội Quốc gia đã mở cuộc hành quân lớn và kêu gọi những ai muốn rời Yên Tập qua sống ở vùng ‘tề’ an toàn thuộc phía Quốc gia đều có thể lên đường, và hứa sẽ được giúp đỡ tận tình. Thế là đa số giáo dân xứ đạo tôi đã dứt khoát ra đi, bỏ lại tất cả ruộng nương nhà cửa. Mẹ con chúng tôi cũng hăm hở bước theo đoàn người di tản, dẫu tâm hồn đắng cay vì phải xa lìa chốn chôn nhau cắt rốn cũng như phần mộ của bố và anh tôi, mà có ai ngờ rằng ra đi là sẽ vĩnh viễn không có ngày trở lại!

Một số được đưa tới định cư ở họ đạo Xuân Hoà, chỉ cách Yên Tập khoảng dăm bảy cây số, xế về bên kia thuộc hữu ngạn sông Cầu. Còn gia đình tôi thì chọn xứ Đạo Ngạn qua khỏi thị trấn Đáp Cầu làm nơi nương thân. Toà Giám mục và cha sở ở đó đã chuẩn bị chương trình cứu trợ ráo riết cũng như dành ngân khoản đặc biệt để xây cất một khu chung cư, tuy có chật chội nhưng khá nề nếp cho nhóm người mới đến.

Dẫu có may mắn được nâng đỡ vỗ về như thế, nhưng chuyện kiếm công ăn việc làm đâu phải luôn dễ dàng. Mẹ tôi bắt đầu xắn tay lên đường tần tảo nuôi lũ con thơ. Hai người chị lớn lần lượt đến tuổi lấy chồng, còn lại người chị thứ ba cũng chỉ mới biết phụ việc nhẹ để lo cho các em được đến trường.

Tôi vẫn nhớ, trong khoảng thời gian nương náu ở Đạo Ngạn, hầu hết gia đình tản cư nào cũng có đàn ông thanh niên tình nguyện gia nhập quân đội Quốc gia, một phần để chống lại lực lượng Cộng sản vô thần, mà cũng một phần để có chút tiền lương phụ cấp gia đình. Mẹ con tôi thì xui xẻo, khi bỏ làng ra đi, hai anh em trai chúng tôi chỉ là hai đứa trẻ còn ngây dại. Bao nhiêu vất vả đổ cả lên đôi vai của mẹ tôi, ngơ ngác trước cảnh đất bằng nổi sóng. Xui xẻo hơn nữa khi một tai nạn xe đạp bất thần xảy tới lại cướp mạng sống của anh tôi, sau hai năm sống nhờ vả nơi quê người. Như mệnh trời đã định, dù chỉ là tai nạn xe hai bánh, mà lại đưa ra tận Hà Nội chữa chạy, anh tôi cũng chịu thua tử thần. Một lần nữa, mẹ tôi lại khóc không còn giọt nước mắt trong niềm xót xa buồn tủi. Xóm làng thương cảm cho hoàn cảnh éo le cay nghiệt, nhưng nào ai giúp đỡ được chi đâu!

Sau này, tôi đoán già đoán non rằng sở dĩ mẹ tôi lúc đó còn can đảm kiên trì được là nhờ vào niềm tin siêu nhiên từ lâu ấp ủ trong tâm can, một phần qua những lời trối trăn ân cần của bố tôi. Tôi vẫn thường nghe người đời ca tụng cái đức nhẫn nại đảm đang của người đàn bà Việt Nam, nhưng qua cuộc sống và mẫu mực của mẹ tôi, tôi thấy chả cần phải nghe phải đọc ở đâu khác. Tôi chẳng những thầm nhủ phải ghi tâm khắc cốt niềm biết ơn đến trọn đời, mà đêm ngày mơ ước sẽ làm được cái gì cho mẹ mai sau. Bấy giờ, cái niềm ước mơ đó nó mông lung quá, nó mơ hồ quá, chưa mạnh đủ để tôi nói nên lời, chưa rõ đủ để tôi đi vào hành động, nhưng ngày tháng vẫn lẩn khuất nơi dạ nơi lòng. Tôi vẫn ham đùa nghịch để nhiều lần gây phiền cho mẹ. Tôi vẫn thích đua đòi bạn bè, vẫn ưa chọc ghẹo hàng xóm để tạo rắc rối cho gia đình. Lúc đó, nào đã hiểu cho thấu những cơ cực, những lo âu của mẹ tôi! Cuộc đời còn nhìn thấy tôi thật ngờ nghệch, rõ vô tình.

Nhưng hình như Tạo hoá còn xót thương mà nhào nặn tôi vào khuôn vào phép phần nào, để không nỡ làm khổ mẹ tôi quá đáng. Nghịch thật nhiều nhưng tôi ít dám trốn học đi chơi và việc kinh lễ phải tươm tất. Một phần nhờ mẹ tôi hết lòng dạy dỗ. Thương con, mà lúc đó còn lại là đứa con trai duy nhất, nhưng mẹ tôi nhất định không cưng chiều để hư hỏng. Bao trận roi…để đời, tôi có bao giờ quên được, chắc đã ràng buộc tôi vào lối sống gia giáo đàng hoàng. Mỗi lần đem về khoe mẹ điểm học tốt hàng tháng, tôi nhận ra nỗi hớn hở khác thường hiện lên nét mặt để rồi mẹ tôi cơ hồ quên đi hết mọi vất vả cực nhọc.

Phúc đức tại mẫu. Mà cũng nhờ ảnh hưởng của bố nữa. Tôi nghĩ thế. Ở trường nhiều lần được khen là học hành tấn tới. Ở nhà thờ thì cũng lắm dịp được cha xứ cho là tốt và chăm chỉ để rồi được tuyển vào ban giúp lễ. Tuy chẳng là gì nhưng giữa lúc bao đứa bạn khác thèm được như mình, tôi bỗng đâu thấy mình…oai hẳn ra! Thế rồi, sau đó ít ngày, đùng một cái, cũng chính cha xứ Đạo Ngạn ân cần giới thiệu tôi với cha Tuyên Uý bên trung tâm gia bình ‘Búp Lê’ gần Đáp Cầu để được ngài đỡ nâng trên đường học hành tiến thân. Vị Tuyên uý hảo tâm này bảo đảm với mẹ tôi về mọi chuyện tốt đẹp cho tương lai tôi. Cũng có thể, ngài ngầm hiểu rằng mai sau tôi sẽ có thể nối gót ngài để…ĐI TU! Chẳng biết lúc đó mẹ tôi có bối rối, có lưỡng lự hay có nuối tiếc gì không, nhưng bề ngoài mẹ tỏ ra vui vẻ và hãnh diện lắm. Tôi cũng tự nhiên thấy hãnh diện theo, mơ hồ mường tượng tới một ngày mai tươi sáng đang chờ đón cuối chân trời. Đồng thời cái máu phiên lưu lần đầu được kích thích bỗng đâu trào dâng ngập tâm tư tôi. Thế là tôi lên đường. Rồi tiễn đưa lỉnh kỉnh. Mẹ tôi không lộ (hoặc không dám?) vẻ xúc động bằng đôi hàng lệ, mà tôi thì tung tăng chân sáo, hồn còn lâng lâng để tới phương nào xa xôi, có hoa đăng đang mời đón, có nhạc vàng đang chờ đợi.

Tôi có ngờ đâu, vào cái tuổi ấy, rời mẹ xa nhà nào phải dễ! Một tuần, cái tuần lễ đầu tiên mơ mộng, sống bên cha Tuyên uý, dẫu được ngủ giường cao chiếu sạch, dù được ăn cơm trắng cá ngon, nhưng tôi vẫn thấy thiếu một cái gì rất lớn trong đời. Kết cục là, biết mình không thề gồng sức thử lửa thêm, tôi đã nằng nặc đòi về bằng nhiều buổi nỉ non khóc lóc. Cha Tuyên uý đành phải nhờ người cho…hồi hương ông nhô con chưa vững lập trường tư tưởng.

Thế là Đạo Ngạn lại tiếp tục là nơi tôi âm thầm mài đũng quần trên ghế nhà trường tiểu học. Rồi được xưng tội rước lễ vỡ lòng. Rồi phép thêm sức. Sinh hoạt phụ trội vẫn là luẩn quẩn bên hội giúp lễ của cha xứ. Tháng ngày trôi qua giữa tình trạng tâm trí tôi còn mơ hồ như khói như sương. Tất cả vẫn chỉ là ngây dại, nghệch ngờ. Cho đền một ngày, đất nước lại bừng sóng. Hiệp định Geneva được ký kết. Đường vào Nam bất ngờ mở rộng để quyết định một khúc quanh mới cho cuộc đời tôi.




-----------------------------------------
Tác giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 3. Hạt Giống Nẩy Mầm Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

3. HẠT GIỐNG NẨY MẦM


Tôi xin nhắc lại: Hiệp định đình chiến Geneva được ký kết vào giữa năm 1954, đang lúc dân làng và mẹ con chúng tôi cố gắng tìm cách xây lại cuộc sống. Vất vả, cực nhọc, nhưng tất cả rồi cũng phải được khắc phục. Nghĩ vậy, nên ai nấy bảo nhau đặt trọn niềm tin tưởng vào tương lai.

Người ta bắt đầu bàn tán về cái quyết định ‘quốc tế’ cho phép dân chúng hai miền được tự do lựa chọn đất sống và hình thức chế độ mình ưa thích. Chả hiểu vì sao, từ miền Nam, không thấy ai nghĩ tới chuyện di chuyển ra Bắc làm ăn, nhưng chỉ thấy dân miền Bắc bàn về việc xuôi Nam. Người hồ hởi, kẻ lo âu. Một số hoang mang về chuyến viễn du vĩ đại đó, đã quyết định quay về quê cũ sinh sống, dẫu biết rằng chính quyền Việt Minh sẽ gây nhiều khó khăn phiền toái.

Lúc đó, mẹ tôi đã ngả về ý kiến hồi hương, không phải vì bị tuyên truyền doạ nạt, nhưng bởi thấy việc ra đi mông lung mơ hồ quá: vào Nam rồi biết lấy gì sinh nhai? Nhà lại chẳng có lấy một người đàn ông, đường đất xa lạ, nay mai rồi biết cậy dựa vào đâu?

Oái oăm thay, giữa lúc cái quyết định của mẹ tôi cơ hồ đã ngã ngũ, chuyện về quê hầu như đã sẵn sàng, thì tôi lại bất ngờ thấy nơi tâm tư một tiếng gọi mãnh liệt phải ra đi, ra đi với bất cứ giá nào. Thế là bỗng đâu tôi gào khóc, kêu đòi mẹ tôi phải thay đỗi lập trường. Ai ngờ ý kiến lạ thường của đứa bé ngây ngô mới hơn mười tuổi đầu như tôi lại vô tình được mẹ chấp nhận, khi một chiếc xe taxi lớn bất chợt ngưng lại trên ngã ba Đáp Cầu để mời chúng tôi ra Hà Nội.Như có bàn tay can thiệp tỏ tường của định mệnh, tôi thấy mừng mừng tủi tủi. Hàng cây hai bên đường xem chừng hân hoan vẫy chào. Mỗi nhịp lắc lư của thân xe là như một điệu nhảy reo vui. Ký ức của tôi vẫn như gắn chặt với cái kỷ niệm khó quên của buổi ra đi quyết định đó. Sau này, mỗi lần nhớ tới, tôi lại nghe dạt dào niềm hãnh diện vì mình đã tạo…lịch sử cho cả gia đình và không ngớt thầm tạ ơn Thượng đế.

Từ Hà Nội, chúng tôi được một người bà con rủ cùng đi với đơn vị quân đội thuộc đệ tam quân khu, vẫn đặt tổng hành dinh ở thủ đô xứ Bắc. Chuyến đi được chuẩn bị mau lẹ để rồi mọi người được chở theo đoàn công voa xuống Hải Phòng chờ đáp tàu vượt biển vô Nam.

Mấy tuần lễ chờ đợi tại hải cảng số một xứ Bắc này cho phép chúng tôi mừng tết trung thu lần chót tại phần đất quen thuộc quê hương. Quên sao được đêm rằm tháng tám năm đó: được phát cho một chiếc bánh đa to tướng, tôi đã một mình lẻn ra phía sau trại leo lên ngồi trên đống gạch vụn để một mình thưởng thức ánh trăng. Bóng nguyệt in rõ mồm một trên từng viên sỏi, phiến lá, mà cũng như vô tình rọi sáng ngời tâm tư tôi. Mới là đứa con nít ngây ngô, tôi chưa biết đặt thành những vần thơ diễn đạt tình cảm, nhưng hồn tôi lúc đó cơ hồ đã bay lên thật cao. Có lẽ hôm đó là lần đầu tiên tôi đã có một cái nhìn nghiêm chỉnh và đón nhận được một cảm nghĩ sâu xa về cuộc đời. Từ đó mênh mang một tiếng gọi vươn lên thật bổng, ra đi thật xa. Không phải chỉ là để thưởng thức một khung trời mới, nhưng còn bâng khuâng ấp ủ một cái gì vô hình, linh thiêng, thẳm xa ở bên kia bờ bến.

Buổi xuống tàu diễn ra cấp tốc vội vã nên ai nấy đều mệt nhoài. Tôi cố gắng leo lên boong để quay lại nhìn lần cuối mảnh đất tổ tiên cha ông. Làn gió thổi từ vịnh Hạ Long như muốn núi kéo lại con tàu sắt đang nặng nề rẽ sóng. Bước chân xuống tàu, không ai đã xúc cảm đến độ nước mắt như mưa, nhưng tôi đã thoáng thấy nơi một số người đứng tuổi mắt hoen đỏ, như muốn thầm nói câu giã từ. Chả mấy chốc, đất liền đã khuất dạng phía sau, và thân tàu bắt đầu tròng trành dữ dội. Bởi là đoàn di cư nhà binh, nên chiếc tàu được gọi nôm na là tàu ‘há mồm’ này cũng được lệnh vượt biển theo cung cách cứng rắn nhà binh. Thế là, thay vì được chuyển qua tàu lớn sau khi qua hết khu vực Hạ Long như thường lệ, bà con lại nghe loan báo mình cứ tiếp tục vượt sóng tới thẳng Nha Trang. Và rồi, với lần đi biển đầu tiên, với chuyến tàu được kể là bất thường, và lại chẳng may gặp phải những ngày biển động, hầu hết ai cũng say sóng nằm la liệt dưới hầm tàu trọn vẹn bốn ngày bốn đêm. Trong cơn mệt nhoài với con tàu vật vã quay cuồng, tôi láng máng nghe từ một góc tàu tiếng hát cầu khấn của một đôi người Công giáo nào đó:”Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian ư…ư… đưa con về tới bến”. Tiếng hát đã vô tình gây chú ý cho mấy chú lính thuỷ Mỹ, khiến một số đã xúm lại hỏi han và đem bánh kẹo ra tặng.

Cũng tiếng hát đó đã lại bất ngờ khơi động trong tôi cái niềm cậy tin vẫn nằm thẳm sâu ở một góc nào đó trong hồn. Rồi bất giác tôi lại thầm mơ được đứng thẳng, được bước đi hùng dũng như mấy chú lính kia, để có dịp ra tay đỡ đần phục vụ đoàn người say sóng cơ hồ mất hết sinh lực này. Tôi loáng thoáng thấy cái ước vọng xa xôi là sẽ vươn lên khỏi cái vòng ‘say’ của người đời, ngõ hầu kéo họ tới chỗ ‘tỉnh’. Ở đây, người vượt biển say là thường, nhưng hay biết bao nếu mình tỉnh được để có thể đi lại, có thể lên boong tàu hít thở khí mát, được ngắm bầu trời trong xanh hay màn đêm dày đặc trăng sao. Trên đó, có trùng dương bao la trước mặt, có bầy chim bay lượn hai bên, có nắng chan hoà vây bọc khắp chốn. Và cứ vậy, tôi lan man suy tưởng. Tôi trầm lặng ước mơ. Một cái gì mới lạ và khác thường đang ngấm ngầm xâm chiếm cõi lòng tôi.

Bốn ngày…đo ván trên sàn rồi cũng chấm dứt khi con tàu cập bến Cầu Đá Nha Trang. Từng hàng dừa, từng cồn cát trải dài như bất tận hiện ra tạo nên cả một vùng trời mới, cơ hồ một thế giới mới, hoàn toàn xa lạ, tuyệt đối bất ngờ. Giọng nói trọ trẹ của mấy người gánh quà tới bán đã gây ngỡ ngàng khiến tôi mường tượng phải chăng mình đã lạc vào phần đất ngoại quốc nào đó.

Bảo nhau lên tiếng tạ ơn Thiên Chúa sau chuyến hải hành sóng gió, mẹ con chúng tôi vẫn không giấu nổi nỗi hoang mang lo sợ khi đưa mắt nhìn quanh tứ phía để thấy toàn những cát là cát. Khác nào mình trôi vào một hoang đảo hay lỡ bước đặt chân lên một vùng sa mạc khô chồi! Rồi đây biết làm gì để sinh sống?

Sau đó, qua sự cố vấn của nhiều người, mẹ con chúng tôi đã mau mắn tách rời đoàn di tản nhà binh để ghi tên vào sổ những người di cư dân sự. Thế là được cấp phát gạo muối, được lãnh mấy bộ quần áo Mỹ viện trợ và được chia cho một góc trong khu ‘nhà tôn’ do chính quyền dựng lên vội vã để đón tiếp đoàn người tỵ nạn Cộng sản từ phương Bắc. Dù đã một lần trước đây phải bỏ nhà cửa ruộng nương mà tay trắng ra đi, dẫu đã phần nào quen với sự cơ cực thiếu thốn của tình trạng di cư giữa cảnh người xa đất lạ, mẹ con chúng tôi vẫn không sao tránh khỏi những phút giây chán nản cực độ. Chính quyền trợ giúp cũng chỉ được phần nào và thời gian thì cũng có giới hạn thôi, thành ra mẹ và chị tôi đã phải tìm cách xoay sở buôn bán lặt vặt để kiếm thêm gạo và lo cho tôi cũng như đứa em gái được tiếp tục cắp sách đến trường.

Ở lớp học, chúng tôi may mắn được các ma sơ nâng đỡ rất nhiều, kể cả việc cảm thông để bớt giảm học phí. May mắn hơn nữa cho tôi là học lực vẫn khả quan, và rồi bất ngờ dần đi tới chỗ khả quan đến độ gây kinh ngạc cho cả nhà trường lẫn mẹ tôi. Chẳng được no lòng nhưng cũng thấy…mát ruột, mẹ tôi như đã đủ vững tâm để vượt qua được biết bao tháng ngày tần tảo vất vả nuôi con. Tôi nhớ vào thời đó nhạc sĩ Y Vân mới sáng tác và cho phổ biến bản ‘Lòng Mẹ’. Mỗi lần nghe được một lời hát vào tai là một lần nỗi niềm thương mẹ như thấm nhập vào hồn. Sau này khi ra làm việc tại Đà Lạt, tôi đã tình cờ có dịp đi coi tuồng cải lương ‘Nỗi lòng của biển’ chẳng rõ là của soạn giả nào. Tình tiết lâm ly của vở tuồng đã gây xúc động khôn tả trong tôi và hình ảnh mẹ tôi của những tháng ngày cơ cực ngoài Nha Trang lại như sống dậy dạt dào trong ký ức.

Bởi vui sống trong cảnh nghèo, bởi có người mẹ biết hy sinh mà cơ hồ tôi đã không hư hỏng theo chúng bạn. Tôi vẫn biết tôi là đứa trẻ rất ưa nghịch và ham chơi, nhưng tôi chẳng hề dám trốn học bởi sợ mẹ buồn phiền. Tôi cũng ngại đi nhà thờ và lười đọc kinh lắm, nhưng rồi cũng rán làm cho mẹ vui. Thế là, bởi gần mực thì đen gần đèn thì sáng, mà cũng nhờ khung cảnh đạo hạnh vây bọc hun đúc, tôi đã tình cờ nhiều lần được bằng khen về hạnh kiểm. Rồi cũng được gia nhập vào hội giúp lễ. Rồi cũng tham gia ca đoàn. Cũng dự thi những chương trình ganh đua kiến thức giáo lý để đem về khoe mẹ phần thưởng nhiều lần. Cha xứ Bắc Thành (một họ đạo tân lập) đã từng khen và tặng quà tôi trước mặt mẹ. Đặc biệt hơn nữa, liên tục trong ba niên khoá, tôi được trao phần thưởng hàng đầu của lớp học, trước sự hãnh diện khác thường của các ma sơ. Mẹ tôi dĩ nhiên phải vui lắm, nhưng không một lần phản ứng lộ liễu đến độ khiến tôi phải hoá ra kiêu. Chỉ một nụ cười kèm theo đôi lời khen và khích lệ giản dị đã là đủ.

Kể tới những chi tiết này như là một cố gắng để nhắc lại ân huệ nhưng không của Thượng Đế đã dành cho tôi từ thuở đầu đời, cơ hồ phần nào bù lại những chỗ khác thiếu may mắn. Với hoàn cảnh của một đứa trẻ di cư nghèo nàn như tôi, tương lai bình thường có lẽ sẽ là một cậu bé đi bán kem, rao bánh mì hay gia nhập bọn du đãng trộm cắp cũng không chừng. Nha Trang của những năm chuyển mình và phát triển sau biến cố di cư 54 đã từng chứng kiến những thảm cảnh và tệ đoan xã hội. Tôi đã ba năm lặn lội trong đó. Đã từng bị cuốn lôi mời gọi. Đã từng thèm khát cảnh phố xá phồn hoa với ánh đèn lập loè nơi trà đình tửu điếm. Mới lên mười tuổi đời vẫn còn quá trẻ và khờ, nhưng con nhà nghèo thường phải khôn trước tuổi. Hoàn cảnh thiếu thốn vẫn hay đẩy đưa tới hư hỏng, sa đoạ.

Quả thật, ở quãng đời đó, tôi đã may mắn, may hơn sức tôi tưởng tượng nổi. Hai lần tay trắng ra đi, tuy có nhục nhằn đắng cay thật, nhưng đã bù lại cho đời tôi bằng những bài học quý giá không bao giờ quên được. Và rồi ba năm phấn đấu ở miền…thuỳ dương cát trắng ấy cũng đã gieo vào lòng tôi những ý nghĩ tốt đẹp và những mơ ước cao cả lạ thường. Cái ý chí vươn lên được nung nấu tiềm tàng đâu đó trong tim. Cái tư tưởng thoát ra khỏi cuộc sống tầm thường lại ngùn ngụt hun đúc trí lòng. Làn nước bao la trải dài trùng điệp ngoài khơi đã hơn một lần thôi thúc tôi qua cái ước vọng mơ hồ sẽ ngày nào được bay lên, được ra đi.

Khi tôi học hết chương trình tiểu học cũng là lúc mẹ tôi gặp được một số người đồng hương từ vùng Đà Lạt ra chơi Nha Trang. Ai nấy đều khuyên nhủ gia đình tôi trở về khung cảnh ruộng vườn và giới thiệu một xứ đạo di cư mới lập tên là Lạc Lâm trên miền cao nguyên Lâm Viên. Thế là mẹ con chúng tôi lại một lần nữa khăn gói ra đi. Cũng vẫn chẳng có chi phải bỏ lại để mà tiếc mà thương. Tuy nhiên tránh sao được chút lưu luyến với những kỷ niệm, dẫu chỉ là những dấu vết của cực nhọc xót xa.

Tôi đã mang theo hình ảnh của ngôi trường Thánh Tâm và nhà thờ Bắc Thành bằng tất cả nhung nhớ, ngậm ngùi. Con đường Lê Thánh Tôn rợp bóng me hai bên như vẫn hiện ra trước mắt, bởi đời tôi đã một lần gắn chặt với khu phố bao ngày lê mòn chân đất tới trường này. Và đây nữa, ngôi thánh đường đồ sộ trên ngọn đồi ngã sáu, nổi danh với tên nhà thờ đá, rồi đại lộ Duy Tân ôm gọn bãi biển với bóng dừa và hàng phi lao chạy xa tít tắp. Đã hết đâu, di tích Tháp Bà bên cầu Xóm Bóng lịch sử, thắng cảnh Hồn Chồng bên miệt Đồng Đế nhiều du khách và nhất là Hải Dương học viện trên vùng Cầu Đá đón nhận đoàn di cư lếch thếch ngày nào. Tất cả đã được ghi khắc trong lòng tôi, dẫu chỉ với ba năm của tuổi đời thơ dại tăm tối, nhưng thật thẳm sâu, đậm đà. Tôi cũng đã biết đứng ở sân ga để vẫy tay chào biệt. Có ai biết mình đâu để ra đưa đón tạ từ, nhưng cơ hồ cả phố phường Nha Trang đang chạy tới tiễn chân.

Đoàn tàu hoả chuyển bánh rời vùng cát biển đưa chúng tôi lên miền cao nguyên qua ngả Phan Rang. Những ngôi tháp Chàm sừng sững hai bên đường rày như khóc như than cho dĩ vãng của một dân tộc oai hùng. Qua những lớp học sử ký, địa dư, tôi đã được nghe về lịch sử Chiêm Thành, để rồi chuyến tàu…lên núi hôm nay đã gieo trong tâm tư tôi một nỗi bâng khuâng xa vắng. Tôi miên man suy nghĩ về cuộc đời trầm thăng chìm nổi, lộng lẫy hôm nay và để tàn lụi ngày mai. Rồi lại hoang mang liên tưởng đến những tan hợp, những mất còn. Tựa hồ mọi chuyện có để rồi trở về không, mọi biến cố đến để rồi đi, không trăn trối dặn dò. Lịch sử và đời người là nối tiếp những chuyển biến và lãng quên. Inh ỏi như tiếng còi tàu nhưng cũng thật mau tan vào hoang vắng. Dày đặc như cột khói đầu tàu phun lên mà cũng phút giây tan biến đi trong không gian mờ nhạt. Thế là trí lòng tôi lại một lần được lắc lư theo nhịp thân tàu. Một cái gì tít mù ở trên cao như lại kéo hút tâm hồn tôi, chỉ âm ỉ, thật nhẹ nhàng.

Lạc Lâm chỉ cách Đà Lạt vài chục cây số ngàn, chếch về hướng đông nam, gần vùng Đơn Dương với đèo Ngoạn Mục. Một linh mục dòng Đa Minh được phép hướng dẫn dân tới mở trại định cư trên một triền đồi soai soải khá lớn. Gỗ làm nhà cứ lên rừng mà chặt. Tranh lợp mái thì chỉ việc ra cắt ngay dưới thung lũng phía trước. Đất đai trồng trọt thì phân phối ra mà khai phá. Có lẽ nhờ bàn tay cần cù của đoàn người Bắc di cư mà Lạc Lâm đã mau chóng trở nên một làng định cư trù phú cũng như một họ đạo sầm uất, để rồi vào dịp mẹ con chúng tôi đưa nhau về đây, Lạc Lâm đã mang một bộ mặt khá khang trang tươm tất. Rồi gia đình chúng tôi cũng có một căn nhà nhỏ và một mảnh vườn trồng rau trái. Nếp sống yên ổn xóm thôn dần dần trở lại và tôi cũng bắt đầu ghi danh lên học lớp ‘đệ thất’ trên quận lỵ Đơn Dương. Bầu trời cao nguyên như lại rộng mở để quyện bước chân tôi. Mắt tôi đã tựa hồ quen thuộc với núi đồi trùng điệp và rừng thông đêm ngày vi vu ca hát.

Đùng một cái, vào một buổi chiều sau giờ kinh thường lệ của giáo xứ tại thánh đường, tôi được cha xứ chặn lại hỏi han vu vơ vài chuyện rồi bất thần ngỏ ý muốn giới thiệu tôi ĐI TU! Thoạt nghe cứ như chuyện hoang đường. Khác nào một giấc mơ. Tôi lúng túng chẳng biết trả lời sao, đành xin được khất hôm sau sẽ lên gặp lại cha xứ cùng với…mẹ tôi. Tối hôm đó, sau khi nghe chuyện, mẹ tôi chỉ cười nhạt trả lời: “Mày mà tu với tác gì. Có chăng là tu…hú!” Nhưng rồi mẹ tôi cũng hứa sẽ cùng tôi lên nhà xứ sáng hôm sau.

Câu chuyện diễn tiến cứ như là đã được chuẩn bị từ thuở kiếp nào trước. Trong lúc mẹ tôi ngần ngại lo âu, nào bởi thấy tôi chẳng có chi đặc biệt để dám mơ tưởng việc thần thánh, nào là gia cảnh quá đạm bạc, rồi lại còn cái lý do ‘con trai độc nhất’ ngập ngừng không dám nói ra, thì cha xứ cứ ào ào ‘tiến tới’. Hết trấn an khích lệ ngài lại đảm bảo và xác quyết rằng đâu sẽ vào đó. Cha cũng gần xa tiết lộ rằng mình ‘coi tướng’ ít khi sai trật và đã từng thông làu cái khoa tâm lý nhận xét! Thôi thì dẫu cho mình chưa hiểu cái chuyện ‘ơn kêu gọi’ nó là trời trăng mây nước thế nào, tốt hơn hết cứ để ngài biện luận và sắp đặt, và rồi mẹ con tôi chỉ còn biết ‘vâng ý cha dưới đất bằng trên trời vậy’.

Thế là, sau khi những chi tiết lỉnh kỉnh và ngày giờ lên đường được ấn định, tôi ra về mà cứ tưởng mình đang bước trên chín từng mây xanh. Thật ra, một nửa thì chân sáo mừng vui đấy, bởi lại sắp có dịp để tung hoành phiêu lưu phương trời lạ và đi cho biết đó biết đây, nhưng một nửa lại nơm nớp lo sợ chưa rõ đi tu sẽ là thế nào, chắc gì sẽ vượt qua được những thử thách khó khăn. Mình vẫn biết mình chỉ là…phận mỏng cánh chuồn, biết đâu rồi sẽ chẳng ba bẩy hăm mốt ngày lại đòi về với mẹ như thời thử lửa bên Đáp Cầu ngày nào. Làm sao đã hiểu được đi tu làm Linh Mục để nối tiếp sứ mạng cao cả các Tông đồ Chúa, để làm nhân chứng Tin Mừng với Nước Trời, để đem gương sáng và lời giảng ra lôi kéo và thăng tiến tha nhân!

Tuy nhiên, niềm phấn khởi đã hiện lên nét mặt khiến tôi dứt khoát thuyết phục mẹ tôi cứ an tâm, chẳng khác gì buổi hối thúc lên xe ra Hà Nội ngày trước giữa cái lúc gia đình còn phân vân nửa đi nửa ở. Dẫu cái gì sẽ sảy ra, mình cứ thử một lần để ‘cũng liều nhắm mắt đưa chân’ mà đợi coi ‘con tạo xoay vần’.

Do tiền định hay bởi một tiếng gọi bất ngờ, tôi chẳng biết, mà cũng chưa một lần thắc mắc tìm hiểu. Chỉ thấy rằng mình đã thực sự hăm hở ra đi. Tới buổi lên đường, tôi mới biết còn có năm ‘đồng nghiệp’ khác cũng khăn gói quả mướp sẵn sàng lên xe như tôi, và đặc biệt là tất cả sẽ được gửi tới sát hạch tại chủng viện thuộc địa phận di cư Hải Phòng, hiện tạm đặt trụ sở ở Mỹ Tho, Định Tường. Cho đến bây giờ tôi cũng vẫn chưa hiểu tại sao cha xứ (thuộc dòng Đa Minh) lại không đưa chúng tôi về đệ tử viện thuộc dòng ngài tại Vũng Tàu. Đôi lúc chỉ ngồi đoán mò rằng năm đó mấy cha giáo từ Mỹ Tho về Lạc Lâm mở cuộc chiêu mộ đặc biệt qua bàn tay cha xứ.

Mẹ tôi lần này thì rưng rưng lưng tròng nước mắt lúc xe sắp chuyển bánh. Chẳng dặn dò được gì thêm ngoài câu ‘con đi bằng an’. Không kịp nhắc ‘tới nơi nhớ biên thơ về cho mẹ’ hay ‘cố gắng ngoan ngoãn và học hành chăm chỉ’ nữa. Hẳn mẹ tôi quá xúc động, mường tượng rằng biết đâu ra đi hôm nay chẳng là chuyến chia ly thật, rồi là xa cách dài lâu, rồi là nhớ thương tràn lấp.

Chiếc xe bờ-rô đã ra tới gần đầu trại mà vẫn thấy có bàn tay vẫy đưa trong đoàn người đứng tiễn. Chúng tôi bỡ ngỡ ngó nhau và lắng nghe chú chủng sinh dẫn đường cắt nghĩa một số chi tiết cần thiết. Bốn ông…ma mới thôi thì tỏ ra ngoan hiền tột độ, được hỏi tới đâu, thưa bẩm đàng hoàng tới đó. Ngài ma cũ nghiễm nhiên trở thành người anh hai vĩ đại đầy oai nghi quyền thế. ‘Ngài’ nghiêm trang tuyên bố rằng ra đi hôm nay chưa chắc gì đã được nhận vào chủng viện. Nếu không qua được cuộc thi sát hạch (diễn ra trong bốn ngày) thì lại tự động lên đường về nhà…bú mẹ. Song song với cuộc sát hạch về học vấn, còn có cái mục theo dõi hạnh kiểm tính tình. Và rồi ngài hướng đạo cũng thao thao lên tiếng chỉ bảo dặn dò, cặn kẽ đường đi nước bước, từng lời ăn tiếng nói. Bọn đàn em ngồi băng ghế sau chỉ còn biết há hốc miệng ra nghe, trong lòng thì hồi hộp lo sợ, chẳng biết số phận sẽ ra sao, quên cả ngó ra ngắm cảnh hai bên.

Chả mấy mà đã qua Blao (Bảo Lộc), rồi Định Quán được chọn làm điạ điểm dừng chân nghỉ ngơi ăn uống. Khoảng xế trưa thì xe chạy qua Sài Gòn. Mắt tôi cứ dán vào những toà nhà, những công thự đồ sộ chưa một lần được thấy trong đời. Cũng mấy năm trước đây, từ quê ra tỉnh, tôi đã sững sờ khi được nhìn ngắm Hà Nội. Bây giờ thì tôi thấy Hà Nội chả nghĩa lý gì so với Sài Gòn. Xe không dừng lại làm tôi cũng hơi tiếc, nhưng rồi cũng dịu đi ngay chỉ mấy chốc mà tới Mỹ Tho với cái chủng viện đang chờ đợi ở một góc phố nào đó. Mùi lúa thơm từ những cánh đồng bát ngát hai bên đường như phả vào hồn tôi những cảm giác mới lạ bâng khuâng. Và rồi, vừa tới ranh giới châu thành thì bác tài đã cho xe quẹo phải thay vì đi vào vùng phố xá. Thì ra địa điểm là thuộc xã Bình Đức, hoàn toàn ở ngoại ô của Mỹ Tho. Hàng chữ ‘Chủng viện Chân phúc Liêm’ kẻ vàng đậm nổi trên vòm cổng đập vào mắt tôi như một báo hiệu của miền đất mới đã khởi đầu từ đây.

Và tiếp đến là thủ tục ghi danh. Rồi tổng số bốn mươi lăm ‘tân binh’ được hướng dẫn tới nhận giường ngủ, coi chỗ nhà nguyện, nhà ăn, sân chơi v.v…Mọi khuôn mặt đều trang nghiêm trịnh trọng khi đứng nghe cha giám đốc huấn dụ và ban chỉ thị. Thế là việc nào cũng được lồng gọn trong kỷ luật. Chỗ nào cũng phải thứ tự lớp lang. Tối hôm đó, ai nấy được lệnh về giường ngủ sớm sau buổi kinh tối sốt sắng tạo hy vọng tràn trề.

Rồi bốn ngày sát hạch tuần tự diễn ra. Cu cậu nào cũng ráng làm ra vẻ con nhà ‘lành’, ngây thơ dáng huyền. Rồi bài thi nối tiếp bài thi. Mỗi ngày như mỗi gây cấn sôi nổi hơn. Vào ngày chót thì thiên hạ cơ hồ đã quen với bầu khí, nhưng nét buồn vui cũng phần nào hiện ra trên nét mặt một số ‘tuyển sinh’, tuỳ theo sự nhận định về kết quả của các bài khảo hạch.

Và giây phút định đoạt đã tới. Tối ngày cuối cùng được dự trù công bố kết quả ba mươi lính mới được tuyển lựa (theo khả năng thâu nhận của chủng viện) để mười lăm linh hồn xấu số còn kịp chuẩn bị…hồi hương ngày hôm sau. Có chàng bật khóc ngay cả trước khi vào nghe kết quả, bởi nghĩ mình chắc chắn thế nào cũng đạp vỏ chuối. Thế rồi, khi danh sách đã được công bố, người thì vui mừng nhảy múa, kẻ thì tiu nghỉu buồn xo. Mấy cha mấy thày giám khảo phải chia nhau đi an ủi vỗ về. Thôi thì ‘ý Chúa muốn thế’ với lại ‘còn cơ hội đi chủng viện hay nhà dòng khác’. Và khóc cười mừng tủi lẫn lộn kéo dài mãi tới đêm khuya. Nhiều chàng xem chừng quá xúc động suốt đêm không ngủ.

Phần tôi thì may mắn ngay từ ngày đầu. Các bài sát hạch đã không thấy khó khăn lắm nên hầu hết trôi chảy cả. Trước buổi cha giám đốc công bố kết quả, tôi tựa như đã đoán rõ đầu đuôi, nên chẳng cảm động chi lắm khi nghe xướng đến tên mình. Vả lại, vẫn nhớ lời ‘anh cả dẫn đường’ căn dặn, tôi đã ép mình đi đứng cho đàng hoàng và ăn nói thật lễ độ khoan thai, chỉ trừ một lần bị bắt gặp nói chuyện lớn vào giờ ngủ trưa. Chẳng hiểu vì cái lỗi vi cảnh này hay bởi một sai lầm nào đó trong bài vở mà tôi chỉ được xếp hạng hai trong danh sách trúng tuyển. (Tôi viết thế này nghe ra có vẻ hơi láo lếu, nhưng thật lòng lúc đó tôi hoàn toàn tin mình đã làm bài thật cừ, mà chuyện biểu dương hạnh kiểm thì cũng gần tới bậc siêu!) Thôi nào cần hỏi han thêm làm chi. May mắn chán rồi! Và tôi hí hửng viết thơ về nhà báo tin.

Sau buổi chia tay tiễn đưa những bạn bè thiếu may mắn, trong đó có một mạng Lạc Lâm (xui xẻo cho cu cậu, một mình đạp vỏ chuối!), tôi cơ hồ sống trong tâm trạng hân hoan phấn khởi cùng với niềm biết ơn dào dạt trong lòng. Đường mình nhắm tới hôm nay đã khởi sự tốt đẹp. Chuyện không dám ngờ giờ đây đã đến. Chỉ còn phải nhủ mình tiến lên, hướng thẳng về trước mặt.




------------------------------------------
Tác giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 4. Đường Dài Khởi Sá»± Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

4. ĐƯỜNG DÀI KHỞI SỰ


Thế là tôi nghiễm nhiên trở thành một CHỦNG SINH: một học sinh…tu trong chủng viện. Lúc đầu, cái danh hiệu nghe lạ tai và gây ấn tượng sờ sợ, nhưng riết rồi thành quen, rồi bằng lòng, rồi hiểu rằng mình đang được ươm trồng trong một cơ sở đặc biệt, với mục đích riêng, tựa hồ việc…chủng đậu, trồng trái trong y học.

Rồi chúng tôi bắt đầu được giảng giải về ý nghĩa ĐI TU, về ơn kêu gọi hay thiên triệu. Bọn lính mới như khám phá ra niềm hãnh diện được tuyển chọn, được gọi mời từ…muôn kiếp xa xưa, bắt đầu tập đăm chiêu suy tưởng. Thỉnh thoảng trong những buổi kinh lễ, lòng chúng tôi như rạo rực mỗi lần cả trường cất hát những bài như ‘từ ngàn xưa cha đã yêu con, cha gọi con giữa muôn người…’.

Đường tu cứ thế rực rỡ những hào quang chiếu đến từ xa. Nhìn mình rồi nhìn bè bạn trắng toát trong bộ đồng phục của những buổi lễ lạy trọng đại, tôi không khỏi mường tượng đến bóng dáng những thiên thần giáng thế. Đời mình có bao giờ chứng kiến và dự phần những thứ cao cả thế này đâu! Rồi giờ giấc ăn ngủ, học hành răm rắp đâu vào đấy, lại làm tôi không tránh được những lúc thấy mình như đang mơ. Hân hoan trong từng bước đi và phấn khởi ở mỗi sớm mai thức giấc.

Nhưng những cảm giác thiên đàng và niềm vui thời ‘trăng mật’ ấy chỉ kéo dài được hơn một tuần. Tựa một cánh diều được gió kéo bay bổng lên cao rồi bất ngờ lại mất đà sa xuống, tôi đột nhiên như thấy sợ hãi một chuyện gì thầm kín, mông lung. Có lúc thấy mình lẩm cẩm tự so sánh mình với một con chim đang bị nhốt trong lồng. Gạo nước có đầy đủ, lồng có sơn son thiếp vàng, chung quanh có réo rắt muôn điệu đàn trầm bổng, nhưng cái thế giới đóng khung đã khác hẳn vũ trụ mình sống hôm nào. Mình từng quen tung tăng chạy nhẩy, từng yêu bầu trời tự do thênh thang. Lúc này bổng như mất đi một cái gì thật lớn lao, vô cùng quí giá. Rồi nữa, cái đại gia đình chủng viện hôm nay làm sao thay được khung cảnh gia đình nhỏ bé đầm ấm trước đây. Bóng dáng nghiêm nghị của các cha các thày giờ đây làm sao xoá mờ được hình ảnh dịu hiền của người mẹ. Hiện tại chỉ còn là kỷ luật với khuôn phép để rồi phải nơm nớp lo sợ phạm lỗi mà bị quở phạt!

Thế là nổi lên một chuỗi niềm bi quan ngao ngán. Tôi bỗng thấy nhớ nhà, nhớ mẹ khủng khiếp. Ký ức của buổi xa nhà khi còn ở Đạo Ngạn nay bất thần tái xuất hiện khiến tôi đã nằm mơ bỏ trốn ra về tới hai lần liên tiếp. Lòng nhủ lòng cơ hồ mình chẳng có số đi tu. Rồi sau mấy ngày đinh ninh theo lời mẹ bảo mình mang kiếp tu hú, tôi đã toan dứt khoát lên gặp cha giám đốc để xin được phép ‘hồi hương’. Dĩ nhiên là hết còn ham những ước mơ cao cả, hết dệt những mộng dị thường. Tan biến đâu hết niềm hãnh diện được tuyển chọn cũng như nỗi tự hào về một tương lai cao cả đang rộng mở cuối chân trời. Bây giờ chỉ mong sống bình thường để được vui đùa thả giàn như trăm ngàn đứa trẻ khác. Cần gì một lý tưởng siêu việt! Tại sao phải ôm ấp những điều khác biệt vời xa?

Nhưng rồi tôi cũng chẳng dám đặt chân lên cửa phòng cha giám đốc. Mỗi lần chỉ nghĩ tới thôi cũng đã trống ngực đập liên hồi như trống hộ đê. Lạ thật. E rằng mình sẽ bị ngài la rầy ư? Sợ rằng lũ bạn sẽ cười nhạo ư? Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ nhớ rằng liên tiếp mấy ngày liền tôi cứ sống như kẻ mất hồn. Học chẳng ra bài và ngủ không yên giấc. Bên trong thì hoang mang thẫn thờ, mà bề ngoài lại khiếp có người hay biết để rồi cả đám chế giễu là đi tu mà còn nhớ mẹ!

Có lẽ cái sợ sệt e ngại ấy đã vô tình giữ tôi lại để tiếp tục cuộc sống chủng sinh. Lần đầu chính thức xa nhà để gia nhập vào một đoàn thể với kỷ luật nhà binh đã thực sự gieo cay đắng cho những tháng năm còn thơ dại của đời tôi, nhưng cũng là cơ hội tôi được nhào nặn để nên cứng cát trưởng thành. Tôi biết, ngày nay nhìn vào cảnh huống ấy, nhiều người sẽ cho rằng hơi tàn nhẫn bởi cái hệ thống huấn luyện đó áp dụng quá sớm cho lớp trẻ còn non nớt tuổi đời như chúng tôi. Có thể một số cũng sẽ nghĩ rằng hình thức ấy đôi khi gây tác hại tâm lý, dựa vào những trường hợp của một số trẻ được gởi trong nội trú lâu ngày. Tôi chưa dám đứng ở lập trường nào, nhưng thầm nghĩ rằng đời mình đã sớm được nếm thử và học hỏi cuộc sống tập đoàn. Dầu muốn dầu không, chúng tôi đã sớm có cơ hội được hướng dẫn để phát triển bản lãnh cá nhân, biết quyết định và tự lập, tình cảm đặt sau lý trí và nhìn về tha nhân hơn vào chính mình.

Tôi đã thấy cái ‘sàng khôn’ mỗi ngày mỗi rộng mở cho những khối óc tươi xanh của chúng tôi. Tôi đã tin rằng nếu cứ ‘ở nhà với mẹ’ sẽ rất lâu mới có dịp học đòi nhịp tiến xã hội bên ngoài. Sống trong chủng viện, chia sẻ mọi sinh hoạt với cả một tập thể, tôi cũng thấy không kém gì cái chuyện ‘đi’ người ta thường khuyên nhau đi cho biết đó biết đây.Với đời kỷ luật, nó đã thực sự đặt nền móng vững chắc cho một cuộc sống nề nếp, có phép có khuôn từ lúc thiếu thời. Nó dạy chúng tôi biết đối đáp phản ứng thường xuyên giữa đám đông. Nó rèn luyện một cái nhìn khách quan và một nhãn giới rộng mở, đại đồng. Và nữa, nó cũng khích lệ những tài năng qua những hình thức ganh đua giáo dục. Bởi đó, càng bình tâm nhận định, tôi càng thấy rằng cái hay cái lợi đã vượt xa cái thiệt thòi mất mát. Để rồi sau ít ngày tâm tư tôi đã dần dà chấp nhận và khám phá thêm nhiều điều ý nghĩa nơi trường tu.

Mọi người đều nói vào chủng viện tức là đã đi tu. Thực ra chúng tôi đã mang cái nhãn hiệu tu từ đó. Nhưng nói đúng ra, đây chỉ là nơi huấn luyện, nơi thử thách và cũng là nơi tập sự cuộc đời hiến dâng Thiên Chúa sau này. Cái ý hướng tập luyện để vào đời và phục vụ lúc nào cũng được đề cao và nêu rõ. Không mấy ai nghĩ mình nay mai sẽ ra trường để rồi lều chõng lên sống miền rừng sâu núi thẳm, xa lánh trần đời. Thành ra, vốn liếng phải là một cuộc sống nội tâm vững chắc, một nhân cách đàng hoàng và một nền tảng kiến thức khả dĩ đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội mới.

Nhân cách và kiến thức thì đương nhiên rồi, nhưng nền đạo đức nội tâm mới thực sự là cái đinh của vấn đề, bởi việc huấn luyện thiêng liêng là nhằm đào tạo những vị ‘lãnh đạo tinh thần’ cho ngày mai. Nó đòi hỏi thêm môt ý chí vững mạnh để làm nhân chứng cho ‘nước Trời’ và môn đệ của đấng đã ôm ấp cái chết để cứu độ trần đời. Nó cơ hồ vượt quá khả năng của người thường và hình như khó mà hiểu nổi bởi những khối óc còn ngây ngô như lứa tuổi chúng tôi.

Chuyện độc đáo ở đây là mọi chi tiết không thể được theo đuổi và phát động bằng sức lực tự nhiên, mà tất cả phải được gói ghém trong niềm cậy tin hầu như mù quáng. Tiếng gọi của thiên giới có bao giờ được nghe bằng đôi tai phàm, cũng như sức mạnh của ân sủng thần thiêng đã lần nào được nhìn ngó hay tiếp xúc với giác quan thân xác đâu! Thế nhưng đoàn người ấy cứ nhắm mắt bước đi, thầm bảo nhau rằng đang có đấng linh thiêng mời mọc đón chờ nơi cuối nẻo xa. Niềm tin ấy nhiều khi thật mong manh dòn mỏng, khiến người ta có cái cảm giác đang lạc mất hướng đi. Rồi nản chí vây bọc. Rồi hoang mang ngập tràn. Ăn thua nhau là biết vững dạ kiên tâm, dù hai bên chỉ là mây đen giăng mắc và bốn bề chỉ có đêm tối mịt mùng.

Thành thử cái mục tu đức được chú trọng hàng đầu. Cu cậu nào tỏ ra thiếu lòng đạo là dấu hiệu của một nghi ngờ đáng quan ngại. Chỉ cần một thời gian thử thách ngắn là đủ biết mặt đá vàng. Tuy nhiên, cái chuyện học vấn cũng gay go ngang ngửa. Tháng này qua tháng khác mà cứ thường xuyên…đội sổ thì quả là khó an tâm nổi, nhất là khi đương sự không chứng minh được mình đang gắng sức tối đa, rồi lại ở vào trường hợp mà hạnh kiểm đức độ không mấy khả quan thì chỉ còn chờ ngày cắp gói ra đi.

Bên cạnh hai cái điều kiện bất khả khuyết nói trên, các cụ ‘tu non’ ở đây còn phải có sức khoẻ tương đối ngon lành nữa. Loạng quoạng mà cứ nay ốm mai đau, tháng tháng đôi tuần nằm nhà bệnh thì cũng chả đáng lạc quan là mấy. Tương lai là của những kẻ xả thân đi bốn phương làm sứ mạng tông đồ cơ mà. Thân xác yếu đau thì làm sao đem…xả! Thế là không làm lực sĩ thì cũng phải biết thể dục thể thao cho mình mẩy dẻo dai. Sau những buổi miệt mài sách vở, bà con phải cố mà chạy ra sân để vận động. Sân bóng rổ, bóng chuyền la liệt đấy. Sợ đau chân mỏi tay để rồi ru rú ngồi yên tại một góc xó nào đó thì nhất định khó mà ‘thọ’ được.

Đường dài đời tu của tôi khởi sự như thế đấy. Tôi đã nhào lộn vào một tập thể để chia sẻ cuộc sống với gần chín chục mạng khác mong làm quen với cái khuôn phép rập ràng trong niên khoá đầu. Dĩ nhiên năm thứ nhất vẫn là năm thử lửa số một. Mà nào có cái chuyện đầu xuôi đuôi lọt giản dị ở đây! Tôi tò mò đếm con số trên danh sách treo cao mỗi lần rao kết quả học lực cuối tháng, lớp đệ lục sau một năm đã vắng bóng bảy tên, lớp đệ ngũ chỉ còn mười tám và năm chót là đệ tứ chỉ thấy có mười sáu. Bà con cứ thỉnh thoảng lại được báo tin có kẻ giã từ…đơn vị, gây xôn xao xúc động. Có lúc tôi tự hỏi đường dài tiến thủ có tới mười mấy năm huấn luyện, cứ cái ngữ này thì chả biết đến trạm chót sẽ còn được mấy mống!

Mà hay thật, ai cũng biết mình được gửi đến đây để được huấn luyện, sống tạm thời vài năm thôi, nhưng trong tâm tư, mọi người đều có cái cảm nghĩ rằng chủng viện bây giờ là nhà. Rời chủng viện là ra đi, là lìa xa mái ấm. Dẫu cho ở đây quanh năm lớn bé đều phải vất vả cố gắng không ngừng. Tôi cũng không ra khỏi cái cảm nghĩ phổ thông đó. Mấy tiếng ‘chủng viện Chân phúc Liêm’ đã vô tình trở thành một thứ gì thân thiết nhất của cuộc sống. Nơi đây đã hoá nên một đại gia đình, với các Linh Mục và các ‘thày giảng’ thuộc ban giám đốc và giáo sư như thể những người cha người mẹ đầy thương yêu trìu mến. Chúng tôi sớm nhận ra sự hy sinh tận tuỵ hiếm có nơi các ngài, chẳng nề quản chia sẻ cuộc sống gò bó cơ cực nơi cơ sở đi mướn tạm bợ này.

Tôi vẫn nhớ như in vào óc hình ảnh mấy gian nhà lợp lá dừa đơn sơ, được dùng làm bốn lớp học cho chúng tôi. Xế đó một chút là ngôi nhà nguyện cũng lợp lá, vách được quây gỗ sơ sài. Căn nhà chính của chủng viện là nhà ngủ chủng sinh, toạ lạc phía bên kia sân ngăn cách dãy nhà học, mái tuy lợp ngói nhưng đã bắt đầu xiêu vẹo rêu phong. Nhà các cha các thày và khu bếp chạy song song phía sau căn nhà ngủ lớn, cũng có tường gạch và mái ngói nhưng tất cả đã cũ kỹ lắm rồi.

Gần nhà bếp là một chiếc ao khá rộng ăn thông với sông Tiền giang qua một con rạch ngoằn ngoèo chạy qua xóm thôn dân chúng. Nhờ nước sông lên xuống thay đổi hàng ngày nên chúng tôi có nước tắm giặt thoả thuê. Liền sau mảnh ao là khu vườn cây ăn trái, với những hàng dừa mọc um tùm rợp bóng tạo nên một khung cảnh một khu rừng già âm u. Có rắn rết đe doạ. Nhưng cũng có đủ thứ trái cây đầy cám dỗ cho bọn trẻ chúng tôi. Kỷ luật chủng viện nghiêm minh là thế mà thỉnh thoảng vẫn có những vụ trốn ngủ leo rào đi tìm ‘trái cấm’, cơ hồ chẳng coi những màn phạt quỳ trước nhà là chi cả!

Có lần tôi được cắt nghĩa đây từng là cơ sở nội trú của các dì phước Mến Thành Giá chi chi đó. Qua trung gian của giáo quyền và bởi thương cảm hoàn cảnh đoàn người di cư, các bà phước ấy đã nhường lại cho chủng viện xử dụng, có lẽ với giá tiền mướn tượng trưng. Kể là may mắn có chỗ tiếp tục chủng viện đưa từ Bắc vô, nhưng cũng bởi cơ sở này quá cũ nên đức Giám Mục Hải Phòng đã phải nghĩ đến chuyện đi quyên tiền từ ngoại quốc để xây cất một cơ sở khác.

Thế là sau hai năm tôi sống ở ‘xóm nhà lá’ Bình Đức, chủng viện đã hoan hỉ ‘thiên đô’ về Đạo Thạnh, một góc khác của ngoại ô châu thành, với địa điểm rất thuận tiện, kế ngay đường quốc lộ và lại sát bờ sông. Tình hình nghe có vẻ trên bến dưới thuyền tưng bừng lắm. Rồi trong nhà lại có nước máy, với vòi tắm hoa sen, có lầu ngủ thênh thang gió mát. Như từ bậc ‘cú’ lên ‘tiên’, bọn trẻ chúng tôi thấy hứng khởi ra mặt, dẫu cho một số vẫn như nuối tiếc những gốc xoài, gốc mãng cầu nơi chốn cũ.

Trở lại chuyện riêng tôi từ lúc đầu khoác áo chủng sinh. Biết thân phận hao gầy của mình, tôi chẳng hề dám nuôi ý tưởng tự mãn chứ đừng nói cả gan vênh mặt lên với bạn bè. Lúc này đang được trời thương để học hành giỏi thật đó, nhưng chả phút giây nào tôi quên được rằng trước sau mình vẫn chỉ là đứa bé nhà quê ra tỉnh, nên cần nhớ chuyện…chó đen phải giữ mực. Bà con hiếm ít, lại không phải con ông cháu cha, nên hơi sức đâu mà đua đòi. Nhà vốn nghèo, sắm được bộ đồng phục trắng đã là khá. Rồi chăn màn riêng, tiền sách vở, dụng cụ cần thiết, nhất nhất đều do đồng tiền quý báu của mẹ tôi. Làm sao dám khinh thường. Thế là luôn nhủ mình phải biết an phận, biết thường xuyên cố gắng. Có lẽ tôi nghịch ngợm chẳng thua kém ai, nhưng bởi bẩm sinh không có cái gan chịu phạt nên đành một phép. Chuyện kinh hạt lễ lạy cũng ít ra phải theo đòi lệ thường với thiên hạ, dưới mắt các vị dạy dỗ, tôi được ngó với cặp mắt tin tưởng, nhiều triển vọng lạc quan.

Thiều quang thấm thoát, ba tháng đầu trôi qua mau lẹ. Vào một buổi chiều chủ nhật, trong lúc tôi đang đứng coi mấy đứa bạn chơi ping-pong bên hiên lớp học thì được lệnh gọi lên phòng cha giám luật. Hơi chột dạ, tôi tự hỏi chuyện gì sắp xảy ra. Mình mới phạm lỗi chi đáng kể? Được gọi lên gặp cha giám luật nhất định phải là điều nghiêm trọng. Nhưng rồi cũng cố giữ bình thản chậm rãi bước lên mấy nấc thang cấp, trống ngực bất ngờ đập dập dồn.

Lúc mở cửa, cha giám luật nhẹ nhàng mời tôi ngồi rồi từ tốn vào chuyện:

- Chắc chú bỡ ngỡ lắm khi được gọi lên đây?

Tôi khúm núm:

- Vâng, lần đầu được triệu tới phòng cha, con cũng hơi thấy nhột dạ.
- Chú có đoán tôi gặp chú để làm gì không?
- Con không có lý do nào để đoán.
- Chú cứ đoán thử coi.

Tôi ngần ngại một hồi rồi đành lên tiếng:

- Con nghĩ cha muốn nhờ con làm một chuyện gì.

Cha giám luật cười nhẹ:

- Không phải nhờ mà là hỏi ý kiến của chú.

Tôi ra chiều cảm động:

- Con làm sao dám góp ý kiến về chuyện chủng viện!
- Tôi chỉ hỏi chuyện riêng thôi. Số là coi hồ sơ, tôi chỉ thấy chú chỉ còn mẹ, mà cũng không thấy đã nhận ai làm cha đỡ đầu thiêng liêng. Chú có biết đa số các chủng sinh khác đều nhận một cha bảo lãnh khi đi tu không?
- Thưa có. Nhưng riêng con thì chưa gặp cơ hội.
- Cha xứ Lạc Lâm có nói chi?
- Ngài chỉ giới thiệu để vào chủng viện và lo cho hồ sơ giấy tờ.
- Thế chú có muốn nhận một cha đỡ đầu không?
- Thưa nếu được cha giới thiệu con đâu dám chối từ.
- Chú muốn nhận cha nào?
- Con không biết nói sao.

Cha giám luật liền nhìn tôi đăm đăm rồi chậm rãi:

- Chú có muốn nhận tôi không? Tôi đã có ba người con thiêng liêng rồi. Nếu thêm chú sẽ thành tất cả bốn anh em.

Tôi bỗng thấy mình như đang mơ. Chẳng lẽ đây là chuyện hoang đường sao? Cơ hồ tôi không tin vào tai mình nữa. Hay là tôi xúc động quá? Tôi đã chẳng nói được lời nào đáp lại. Chỉ biết rằng mặt tôi nóng bừng. Hai bàn tay lúng túng như không biết để vào đâu. Mất một hồi, tôi mới xem chừng bừng tỉnh để rồi e thẹn cất tiếng:

- Cảm ơn cha.

Thế là chuyện giả tưởng hoá ra sự thật. Từ hôm đó tôi trở thành con đỡ đầu của cha giám luật. Chẳng bao lâu, tin đồn cả chủng viện và tôi mường tượng nhiều cu cậu đã phải sửng sốt đến độ như phải ghen với cả tôi. Lũ bạn kháo láo nhau rằng cha giám luật chỉ khoái nhận những đứa học giỏi. Có tên lại nói móc rằng tôi chúa nghịch nhưng khéo giả đò ngoan nên…trúng số. Nhưng rồi đa số vẫn thực sự nhìn tôi với cặp mắt thèm thuồng, hay nói khác đi, coi tôi là kẻ may mắn nhất trần gian: nhận được cha giám luật làm bố thiêng liêng thì như sẽ ‘an toàn trên xa lộ’, có bề gì thì cũng sẽ được nhắc bảo, báo động trước.

Tôi biết những chuyện này. Tôi ý thức hoàn cảnh của mình nên cố gắng tỏ ra biết điều tối đa. Vẫn hay mình được hên may, nhưng nào cuộc đời chỉ đơn giản có thế! Đường đi trước mặt ngày nào mà không đòi hỏi phải cố gắng, phải vươn lên? Tôi đã khấn nguyện để không bao giờ kiêu ngạo hợm mình, bởi thực tế đã có lắm khi thấy mình trổi vượt anh em mà xem chừng tôi quên khuấy đi mất cái thuở ban đầu nhà quê khờ khạo của mình.

May mắn vẫn cứ đến với tôi suốt năm học đó. Cha giám luật muốn tôi ở lại ăn tết với ngài và hứa sẽ đưa đi chơi nhiều nơi. Nhớ mẹ thật nhiều, tôi đã gửi quà và viết về nhà kể lể mọi chuyện. Rồi tôi vẫn tiếp tục may mắn đứng đầu lớp về học lực cho tới tháng chót trước khi nghỉ hè. Qua sự đề nghị của cha đỡ đầu và như một đặc ân của ban giám đốc, tôi đã được ‘phép’ nhảy lớp. Thế là sau một tháng về quê thăm nhà, tôi đã trở lại chủng viện để học tư chương trình lớp đệ lục trong khoảng một tháng rưỡi. Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi cũng chẳng hiểu lúc đó làm sao mình dám liều lĩnh táo bạo đến thế! Có thể như một chuyện sẵn đà tiện hứng, rồi lại được sự khích lệ đỡ nâng. Và tôi đã vững bụng leo lên ngồi với các đàn anh lớp đệ ngũ ở đầu niên khoá sau.

Chẳng mấy ai tin nổi những gì đã đến với tôi, mà riêng tôi thì cũng chỉ dám hy vọng mù mờ. Nhưng số mệnh cứ như muốn chiều chuộng tôi: sau hai tháng làm quen với bài vở, tôi đã lại liên tiếp leo lên hạng nhất hay nhì suốt năm đệ ngũ, để rồi khi bắt đầu lớp đệ tứ tại trường sở mới bên Đạo Thạnh, tôi lại đứng đầu sổ thường trực giữa sự vui sướng hãnh diện của người cha đỡ đầu.

Kể lại cái mạng hên của mình trong những năm học ở chủng viện Chân phúc Liêm cũng như ở những niên khoá kế tiếp khi lên bậc trung học đệ nhị cấp, tôi thực tâm chỉ muốn nói lên rằng đời tu của tôi đã ngập tràn ơn huệ của trời cao ngay từ khi khởi sự. Biết đâu, nếu lận đận trên đường học vấn, hoặc nếu không có sự đỡ nâng khuyến khích từ cha đỡ đầu, tôi đã chẳng chán nản để bỏ cuộc vào một ngày…xấu trời nào đó! Và kể ra những đặc ân này cũng là như nói lên các món nợ phải đền đáp, những trách nhiệm phải chu toàn cho tới hết đời mình.

Những buổi một mình ngồi suy gẫm, tôi vẫn tưởng tượng mình là một đứa bé từ ngoài miền đồng hoang rừng núi, được đưa vào nội thành đền vua, được chăm chỉ học hành, được uốn nắn dạy dỗ, đợi ngày được trao tay một sứ mạng cao cả lớn lao. Lo sợ thật đấy và cũng hoang mang thật đấy, nhưng lúc nào cũng vọng vang niềm hãnh diện biết ơn. Lảng vảng trong đầu câu chuyện chú bé Mai Sen ngày nào được cứu thoát và đem vào nuôi dưỡng trong đền vua Pharaoh xứ Ai Cập. Mai Sen đã oai hùng hoàn tất sứ mạng cứu dân mình ra khỏi đất nô lệ. Còn tôi, cứ cái ngữ nhát đảm và loạng quạng này, chắc Chúa sẽ phải lắc đầu thất vọng lắm!

Ngoài những lợi ích của nền giáo dục căn bản về cả trí tuệ, thể xác lẫn đức hạnh, ngoài những cái hay của cuộc sống tập đoàn tạo chín chắn và khách quan cho những nhận định giá trị đời người, tôi còn có cơ hội học hỏi ở những lần du ngoạn đó đây. Đặc biệt dịp giáng sinh 1959 đã cho phép chúng tôi đi thăm nhiều tỉnh miền Hậu Giang, với biết bao thắng cảnh và di tích mà suốt đời sẽ còn ghi còn nhớ. Được tiếp xúc với làng mạc đồng quê cùng bao đoàn người đơn sơ chất phác, tôi càng ngày càng thấy thấm lời kêu gọi của vị Thày chí thánh: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Phải rồi, người dân quê Việt Nam đó, lúc nào như cũng hướng về cõi linh thiêng, như tìm cậy dựa vào một sức phù trợ từ chốn trời cao thần thánh. Không có những bàn chân can đảm ra đi dẫn đường chỉ lối, làm sao họ tự biết tìm về chính lộ!

Tương lai thế là như mỗi ngày mỗi réo gọi. Bước đăng trình cơ hồ thúc giục kéo lôi phải thẳng đường tiến lên. Tôi dần dà ý thức phần nào cái ý nghĩa đoạn đường mình đang đi. Là đây cái sứ mạng mở rộng tâm trí ra để lãnh nhận, ngõ hầu môt ngày nào đó lên đường ban phát, thông chia.

Tại sao phải hối tiếc, khi hiểu rằng mình đã hiến dâng cái tự do vật chất, dẫu là ở giữa lúc tuổi còn xanh, để nhằm rồi mai đem lại cái tự do tinh thần cho anh em đồng loại.

Ba năm chập chững vào đời tu tại miệt Mỹ Tho sông nước đã phần nào cho tôi cái ý niệm căn bản của ơn gọi tông đồ. Tất cả vẫn còn là ngọt ngào êm thắm. Tuổi thơ còn được vỗ về ấp ủ cơ hồ như để chuẩn bị cho những ngày tháng của lứa tuổi hoang mang nghi ngờ sắp đến khi bước lên bậc trung học đệ nhị cấp.



--------------------------------------------
Tác giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 5. Tà Áo Đen Giữa Đô Thành Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

5. TÀ ÁO ĐEN GIỮA ĐÔ THÀNH


Niên học 1959-1960 tại ngôi trường mới bên Đạo Thạnh đã cho chúng tôi những ngày thật huy hoàng: vừa thoải mái với một cơ sở mới mẻ khang trang, lại vừa được dịp…ra oai với những chú đàn em thuộc ba lớp dưới. Nhưng rồi một năm trôi qua vun vút, nhất là với những tháng cuối chuẩn bị thi bằng Trung Học Phổ Thông sát với kỳ hè. Bù đi bù lại cũng chỉ như huề: vừa mệt nhoài với chuyện thi cử xong đã lại phải chuẩn bị khăn gói lên Sài Gòn trọ học từ niên khoá tới.

Mang tiếng là đi ‘du’ học nhưng chả mấy ma nào thấy phấn khởi cả, bởi lẽ từ nay phải mang thân nhờ vả điạ phận khác. Thêm vào đó, bà con vẫn nghe phong thanh rằng nơi ăn chốn ở trên thủ đô xem chừng không mấy khả quan.

Nhưng ngày lên đường rồi cũng tới. Mười lăm anh em lớp chúng tôi tề tựu ở Đạo Thạnh để được xe nhà chở lên Sài Gòn. Qua sự sắp xếp từ trên, chúng tôi được lệnh trọ học tại chủng viện thánh Phao Lô, miệt Phú Nhuận. Chủng viện này gồm đủ cả bảy lớp trung học và được điều khiển bởi các Linh Mục thuộc địa phận Phát Diệm di cư.

Chúng tôi lại đương nhiên trở thành những ma mới, ngơ ngác giữa lòng phố xá xa lạ. Khi xe vượt qua ngã tư Phú Nhuận để quẹo vào hẻm Trương Tấn Bửu, chúng tôi đều giật mình quay qua ngó nhau: nhà cửa sao mà chật chội san sát thế kia, và rồi đường xá lại bụi bặm và ồn ào náo nhiệt khác thường! Thì ra, để vào cổng chủng viện, chúng tôi phải đi qua khu chợ ‘ngồi xổm’ và leo lên khúc đường rầy xe lửa nối Sài Gòn với miền Trung. Ôi chao, một niềm nuối tiếc buâng quơ bỗng trào dâng trong lòng: thế là từ này đành mất cái bầu khí thanh khiết êm đềm của Mỹ Tho những ngày nào.

Vào tới sân, chúng tôi thấy lố nhố mấy bóng áo chùng đen đi lại bên phía nhà nguyện. Lạ một điều là không phải các Linh Mục, nhưng thực sự chỉ là mấy cậu lứa tuổi học sinh. Chẳng lẽ đồng phục ở đây chỉ là bộ áo ‘lý tề’ cổ lổ như hình ảnh mấy chú học trò trong tập sách Quốc văn Giáo khoa thư? Nghi vấn này được giải đáp khi chúng tôi lên chào ra mắt cha giám đốc, để rồi nghe loan báo rằng bộ lễ phục vẫn là quần tây áo sơ mi trắng, nhưng thường ngày lên nhà nguyện dự kinh sách thì phải mặc áo chùng thâm. Thế là bà con được lệnh lên văn phòng đo thử áo ngay tối hôm đó. Đành chịu khó trở về…nguồn vậy!

Bầu khí oi nồng của Sài Gòn cuối mùa hạ đã đe doạ chúng tôi từ ngày đầu. Vì đường đất chật chội, và cũng vì mong đón được chút gió, hai căn lầu dài đã được dành làm nhà ngủ với giường nằm kê san sát nhau. Đêm đầu tiên, chúng tôi lên giường nằm mà tay không lúc nào rời chiếc quạt giấy. Mắt cứ thao láo mãi không nhắm được, trong khi tai thì liên hồi được thưởng thức những tiếng rao quà rao bánh từ ngõ hẻm kế bên. Thỉnh thoảng lại như muốn giật mình nhỏm dậy bởi đoàn xe lửa hú còi rầm rập chạy ngang phía cổng. Tôi nhăn mặt thầm nghĩ: Sài Gòn hoa lệ ở đâu chẳng biết, nhưng cứ với cảnh huyên náo thường xuyên thế này, e rằng đường lên…núi thánh xem ra không xuôi quá!

Rồi chuyện chưa quen cũng phải thành quen. Thiên hạ sống được, tại sao mình phải đầu hàng? Sau một ngày học hành mệt mỏi rồi cũng phải lăn ra mà ngủ. Rồi cũng phải làm quen với mọi thứ âm thanh lạ, quen cả với lũ rệp ‘nhiệt đới’ lâu lâu bò ra tung hoành.

Chủng viện mới cũng có sân chơi, nhưng chỉ đủ cho mỗi lớp một vuông đất nhỏ để sau giờ học bà con kéo ra quần thảo nhau với môn bóng chuyền. Nếu không muốn đứng lúc nhúc đầy sân thì một số đành kiếm mấy màn vận động phụ trôi bên ngoài. Ở mỗi giờ chơi ‘buộc’, góc xó nào cũng thấy quân ta chạy nhảy, khoa chân múa tay. Kỷ luật chủng viện đâu cho phép đi dạo ra ngoài. Vả lại phố xá nào có thanh khiết chi hơn. Mà biết đâu, nếu không bị…mẹ mìn bắt cóc, thì mấy tướng loạng quạng thế nào chả lạc lối về, ấy là chưa kể mấy mục ‘lo ra chia trí’ gây nên bởi nhìn ngó ‘thế gian’.

Cái chuyện ra khỏi cổng hợp hiến hợp pháp chỉ được thực hiện tập thể vào sáng thứ năm mỗi tuần. Bà con hoan hỉ ra mặt, chẳng phải là được tung tăng dạo phố, nhưng vì được ra đá banh tại sân vận động công cộng gần phi cảng Tân Sơn Nhất. Lên đường phải theo hiệu lệnh nghiêm minh, đi theo hàng ngũ chỉnh tề, coi chẳng khác gì sinh hoạt của các đấng Thiếu sinh Quân miền Vũng Tầu! Dẫu sao mỗi lần ‘xuất trại’ như thế cũng cho phép buồng phổi chúng tôi được dịp thay đổi không khí và gây được cái cảm tưởng phấn khởi hơn cho cuộc sống.

Đi liền với chuyện thể thao vận động là phải có mục tắm táp. Khổ nỗi ở đây gần hai trăm nhân mạng mà chỉ đếm được mươi căn nhà tắm nhỏ bé sơ sài. Nếu sân chơi đã phải chia phiên thì nhà tắm lại càng phân phối cho thật kỹ lưỡng. Hai bên đầu nhà ngủ cũng có hai bồn chứa nước khá lớn, nhưng ở đây không phải trại lính nên việc tắm lộ thiên bị coi như việc công xúc tu sỉ. Thế là có nước cũng như không! Biết bao cu cậu ngại chuyện tranh giành cầu cạnh mà đã không giải quyết nổi cái cảnh mồ hôi nhễ nhại khi hết giờ chơi phải vào ngay lớp học hay nhà nguyện. Phần tôi thì sau những ngày nghiên cứu tình hình, đã khám phá ra được một mẹo nhỏ để mỗi ngày có thể kiếm được dăm ba phút tắm táp cho thoải mái làn da. Cái mẹo này thỉnh thoảng cũng gặp trục trặc, có lần bị tụi nhóc la quát om sòm, có bữa thì bị cảnh cáo vì mò ra trễ giờ.

Hàng ngày tôi vẫn đinh ninh sức khoẻ là vàng. Mà sức khoẻ trong những ngày sôi kinh nấu sử tại chủng viện còn quý báu hơn cả vàng ròng nữa. Đau ốm đã khổ, đã không thể học hành, mà lại còn bị kể là thiếu điều kiện làm Linh Mục như trình bày trên kia. Dẫu mình chưa đáng bi quan về sức khoẻ, nhưng tôi cũng tự nhiên e ngại dè dặt: cái bầu khí ô nhiễm vây bọc ngày đêm, chương trình học thì nặng nề, kỷ luật nghiêm khắc, chuyện ăn uống thì phẩm chất khiêm tốn theo tiêu chuẩn chủng viện một nước nghèo. Tất cả tạo nên một áp lực thường xuyên cho những lớp tuổi cỡ chúng tôi.

Thật đáng buồn vì cứ thỉnh thoảng lại được tin một mống cuốn gói ra đi mà hầu chắc vì lý do sức khoẻ. Căn nhà bệnh với năm sáu giường nằm hầu như ngày nào cũng có bóng thân chủ. Những dịp đổi mùa hay trái gió trở trời thì cứ y boong là đầy nhóc. Mà nhà bệnh nào có tiện nghi êm ả chi đâu, cũng oi bức nóng nực, cũng tứ phía ồn ào. Khẩn cấp thì đưa đi bệnh viện và nếu cần nghỉ dài hạn thì chỉ giản dị mua vé xe về quê, đợi ngày khoẻ hẳn rồi sẽ tính sau.

Tôi chia sẻ những thiếu thốn hạn hẹp này với bạn bè mà chẳng dám một lần than vãn trách móc. Biết đất nước mình nghèo. Giáo hội cũng nào dư giả! Dân chúng đó đây đang sống chật vật khó khăn. Có lẽ lũ trẻ bên ngoài xem ra thoải mái hơn vì được tự do chảy nhảy, nhưng thực ra cũng phải chịu đựng nhiều điều. Mình vào đây được học hành đến nơi đến chốn, mà muốn chọn đường tu thì đương nhiên phải chấp nhận những thứ gò bó, khuôn khổ. Nếu lỡ mà sức khoẻ quá bi quan để rồi phải về làm ‘bố đời’ thì cũng không có chi ân hận.

Tôi cố an ủi mình như thế và bình thản tiến lên. Một phần nào, tôi cũng thấy được khích lệ mỗi khi nhìn tới tấm gương hy sinh tận tuỵ cao cả của các Linh Mục đang huấn luyện dạy dỗ mình. Tuy vị nào cũng có phòng riêng, nhưng cảnh chật chội nóng bức cũng chẳng khá hơn gì. Có vị phải ở ngay hầm thang lầu, ngày đêm lũ trẻ huỳnh huỵch lên xuống. Có vị ở một gian mà vừa mở cửa vô đã thấy những cột là cột. Có vị lại trụ trì ngay kế nhà bếp, mùi xào nấu cùng khói đen xông ra tối ngày. Thế mà các ngài luôn tỏ ra vui vẻ và cố hoà mình với đám trẻ chúng tôi. Ngoài bổn phận dọn bài và dạy học, các ngài còn thường xuyên hiện diện trong các giờ kinh lễ và sinh hoạt cộng đồng. Đồ ăn thức uống thì hầu như y hệt chủng sinh.

Những mẫu gương hiếm có này tôi còn ghi nhớ mãi. Có lẽ chẳng còn tìm thấy một nơi nào khác trên cõi đời. Bóng dáng hiền hoà của cha giám đốc, thường được cả nhà gọi thân mật là bề trên, lúc nào cũng như ấp ủ từng người. Mà thực sự ngài đã là cột trụ, là linh hồn của chủng viện này qua cả mấy mươi năm trời, kể từ thời thành hình ngoài miền Bắc. Khó gặp ai có được đời sống điều độ mẫu mực như ngài: tất cả giờ giấc cơ hồ đã được ngài phân chia cặn kẽ, kể cả việc đi bộ một tiếng đồng hồ mỗi buổi sáng.

Một điểm son khác tôi phải ghi nhận qua những ngày lưu học nơi đây là sự hiện diện của cha linh hướng toàn chủng viện. Khi còn ở Mỹ Tho, Linh Mục giáo sư nào cũng có thể là linh hướng. Nhưng ở đây mọi chủng sinh đều phải thường xuyên đến gặp để trao đổi giãi bày việc tâm hồn với một Linh Mục duy nhất. Nói tới chuyện bàn hỏi thiêng liêng và định hướng tu đức, lũ trẻ chúng tôi mạng nào tự nhiên cũng thấy ngần ngại. Tháng tháng, cứ nhớ đến hẹn phải vào ‘thảo luận’ là tướng nào cũng nhăn nhó ưu tư. Nào là phải duyệt xét lại coi tâm trí, ý hướng, tình cảm tiến thoái đến đâu, cái dự định hiến dâng phục vụ đã phát triển thế nào. Rồi lại còn phải đề cập tới những phương pháp phát triển nhân đức, làm sao cho thực tế, cho hiệu nghiệm. Mà ở đây, chuyện bàn thảo đâu có thể sơ sài phiên phiến được, bởi cha linh hướng đạo đức quá, ân cần quá, lúc nào cũng thiết tha núi kéo, cũng thôi thúc lo âu.

Và cứ thế, ngày này qua tháng khác, cha linh hướng để thời giờ gặp gỡ từng người, bằng tất cả thương yêu chăm sóc, không nề quản mệt nhọc, nhàm chán. Mỗi lần huấn đức chung, ngài luôn đứng và nói bằng tất cả tấm lòng, mỗi tư tưởng đều như phát xuất từ đáy tâm tư, cơ hồ muốn tha thiết trao gửi, muốn trọn vẹn sẻ chia với chúng tôi.

Âu đấy cũng là một món quà vô giá để chúng tôi có cơ hội nhẫn nại và can đảm bước lên. Ở cái tuổi đệ Tam, đệ Nhị, người trẻ nào mà chẳng thấy những phút giây khủng hoảng của niềm tin, của tình cảm, của nhận định giá trị đời người. Nói chi đến những băn khoăn về một tương lai đầy thử thách của lý tưởng hiến thân. Làm sao quên đi được những quyến rũ trần đời và vượt qua được những cạm bẫy thách đố muôn mặt. Dẫu không nói ra, nhưng chúng tôi sẽ phải suốt đời ghi ơn vị linh hướng đức độ cao dầy của những năm tại chủng viện thánh Phao Lô. Chúng tôi chả bỡ ngỡ gì khi, ít năm sau, nghe tin ngài được cất nhắc lên chức Giám Mục. Ai nấy đều tin chắc, ở vai trò trọng đại mới, ngài nhất định sẽ còn làm nhiều điều ích lợi hơn cho cộng đoàn dân Chúa.

Trong các sinh hoạt hàng ngày, gần kề chúng tôi hơn cả là cha giám luật. Đáng lẽ phải chọn một vị có nét mặt nghiêm nghị oai phong (phần nào như cung cách của bố đỡ đầu tôi dưới Mỹ Tho), bề trên lại cử một Linh Mục được mô tả là hiền khô vào chức vụ ‘trừng giời’ thưởng phạt này. Vừa hiền lành, ngài lại có cuộc sống giản dị khác thường. Vào phòng ngài ở (cũng chịu cảnh nằm kế chân thang lầu ngủ chủng sinh), người ta chỉ thấy dăm bảy cuốn sách xếp trên kệ và chiếc tủ đựng quần áo sơ sài kê phía góc trong. Vật dụng được ngài cho là giá trị nhất có lẽ chỉ là cái…bát điếu thuốc lào lúc nào cũng đặt thường trực trên bàn gần cửa ra vào. Bởi cha giám luật cần ở nơi ngã ba lưu thông để nắm vững tình hình sinh hoạt, nên nhiều cha giáo khác tiện đường vãng lai. Thế là khói thuốc lào cơ hồ lúc nào cũng mờ mịt lan toả. Chẳng biết vô tình hay hữu ý, ngài hầu như quanh năm xử dụng đôi xăng đan nâu, bước tới đâu là vang tiếng lẻng xẻng tới đó, thành ra mấy tướng ‘giặc’ dẫu có đang nghịch ngợm hay lếu láo truyện trò mấy đi nữa cũng kịp giờ chuẩn bị trở lại tư thế nghiêm trang và ngoan ngoãn như những ông thánh! Chả mấy khi thấy ngài lớn tiếng la rầy hay phạt nặng chú nào. Có thể một số tướng đã lợi dụng tình thế để leo rào kỷ luật, nhưng hầu hết chúng tôi đều nhận ra cái ý nghĩa của đường lối giáo dục bằng tình thương và tự chế.

Ban giám đốc chủng viện này cũng rất tín nhiệm các lớp đàn anh trong chương trình ‘trên bảo ban dưới’. Đặc biệt lớp đầu đàn đệ Nhất thì xem ra rất có uy quyền: ba người được bề trên cử ra làm ban điều hành tối cao, được gọi nôm na là ban Chánh Phó trường, có trách nhiệm trông coi tổng quát mọi sinh hoạt cộng đồng. Chẳng hiểu…chó ngáp phải ruồi thế nào mà vào cái năm chót trọng đại ấy, tôi lại có chân trong bộ ‘tam đầu chế’ oai hùng nói trên. Tự dưng thấy mình như được thiên hạ kính nể khác thường. Thế là lâu lâu lên họp với ban giám đốc, tháng tháng dõng dạc tuyên đọc bản quy luật chủng viện trước mọi người, rồi phân phát công tác, đặt lịch trình sinh hoạt, ra chỉ thị cho các trưởng lớp, cất kinh trong nhà nguyện và đặc biệt hơn nữa ngồi chỉ huy các giờ học chung (chẳng khác nào như ông quản giáo coi sóc gần hai trăm học sinh trong khu nhà học rộng lớn). Tức cười lắm, theo luật, chú nào muốn ra ngoài, dù chỉ là để đi vệ sinh, cũng phải tới mấy ‘cụ’ chánh phó trường cúi đầu xin phép! Luật lệ nhà Đức Chúa Trời cơ mà, đâu phải ra đó, có dưới có trên. Rõ thật khuôn phép, cứ như ở vào thời quân chủ vua quan ngày nào!

Và cứ vậy, ba năm học qua đi lúc nào không hay. Nhìn lại thấy buồn vui lẫn lộn. Riêng với cái mục học hành thì đương nhiên chả ma nào muốn nhắc lại chi cho thêm ớn: sau cái niên khoá tạm gọi là dưỡng sức của chương trình xen kẻ đệ Tam, chúng tôi cắm đầu cắm cổ chuẩn bị thi liên tiếp hai cái Tú Tài. Thôi thì học ngày học đêm, ra công gắng sức. Đã không thi thì thôi, chứ một khi mang danh chủng sinh mà đạp vỏ chuối thì ê mặt lắm. Thế là tháng ngày chỉ toàn những bài với vở, đầu óc đầy ắp những con số và công thức, những đoạn văn phải thuộc lòng. Đa số chúng tôi đã may mắn được nhìn thấy tên đề trên bảng vàng, nhưng đầu óc rã rời, thân xác mềm tựa bún để rồi ngày mãn trường tướng nào cũng mặt mũi hốc hác như vừa ốm dậy. Thôi thì cũng đáng!

Bảy năm trung học đã qua. Bước về quê nghỉ hè nhẹ tênh chân sáo. Đoạn đường cam khổ ‘chiến binh’ của trường La Tinh đã để lại phía sau. Ai nấy đã phần nào chính chắn hơn, tuy chưa dám nghĩ là trưởng thành. Xong bậc trung học thường là khúc rẽ mới trên đường tiến. Nhiều mạng đã không ngần ngại giã từ anh em để hướng về con đường ‘bố đời’ thênh thang lối bước, có thể vì những khó khăn về sức khoẻ, mà cũng có thể vì cái mảnh bằng le lói hấp dẫn đang có trên tay. Đời người chỉ sống một lần, dẫu có số mạng đi nữa, mình cũng phải dự phần vào việc định đoạt hướng đi cho đời, để khỏi rồi mai ân hận day dứt. Ngã ba đường là đây. Can đảm để quyết tâm, để dứt khoát.

Anh em đều ngầm hiểu rằng những tháng năm qua mới chỉ là thời gian để lên tiếng đáp lại lời GỌI xa vời từ trên cao. Cái chuyện được CHỌN thì còn phải đợi, phải chờ sau một đoạn đường gai góc là lâu dài nữa. Nếu ngựa chưa nản chân bon, chương trình huấn luyện kế tiếp sẽ là chuyên biệt cho sứ mạng người tông đồ qua những năm vật lộn với hai ngành Triết Lý và Thần Học. Ở bậc trung học, tuy đã có môn Giáo Lý, La Tinh, Thánh Nhạc, nhưng mới chỉ là sơ sài chấm phá. Lên trường cao, quen gọi là đại chủng viện, bầu khí tôn giáo đại học mới thực sự bao phủ hầu hết các bài vở trong lớp. Bây giờ mới xong cái phần làm căn bản, nền móng. Lúc này mới lãnh hội được những kiến thức phổ thông để gọi là người đã…đi học.

Nhắc đến phần học vấn sau ba năm luẩn quẩn trong bốn bức tường chủng viện Phú Nhuận, tôi phải công nhận rằng đầu óc anh em chúng tôi được mở mang ngoài sức ước mơ. Một phần do địa điểm trung ương đô thành, một phần bởi những môn học đệ nhị cấp tiến xa hơn, nhưng cơ hồ phần chính là bởi khả năng và sự tận tình của các Linh Mục giáo sư chú tâm dạy dỗ, chúng tôi đạt tới một trình độ học lực không sợ thua kém bất cứ học sinh trường công hay tư nào khác. Kết quả hai lần thi của các ông Tú đã chứng minh rõ ràng.

Chả lạ gì, ở vào cái tuổi ‘đôi tám’ lộc ngộc vừa lớn, lắm tò mò, nhiều cám dỗ, học sinh các trường ngoài làm sao tránh nổi những buổi rong chơi lãng phí, những dịp trà đình tửu điếm, những vui thú đam mê. Chuyện học hành có chăm lắm cũng chỉ đành tương đối. Đàng này bà con chủng sinh nếu ngấy học thì chỉ còn nước…đọc kinh lần hạt, mà lần hạt đọc kinh khó mà hấp dẫn được như việc bát phố hay ciné. Thế là lại quay về với bài vở vậy!

Quân ta cũng có thể tính cái màn ‘lươi huyền’, nhưng dễ gì mà vượt qua cửa ải được trơn tru. Bài thực tập ngoài giờ lớp cứ ngập đầy, hôm nay môn này mai lại môn khác. Tuần nào cũng thế, tháng nào cũng vậy. Không có bài nộp, nhất định là không xong rồi. Thành ra không muốn chăm cũng chẳng được. Vả lại, tả hữu anh em người ta cắm đầu học cả, chả lẽ mình độc diễn cái màn chơi! Ấy là chưa kể bóng dáng của cha giám luật hay mấy cụ chánh phó trưởng lảng vảng đâu đây, lúc nào cũng như muốn cảnh cáo, thúc giục. Nếu lỡ có những trường hợp ao ước được time-out để ‘dừng bước quân hành’ thì chỉ còn nước cứ lẳng lặng xin ghi tên vào danh sách nhà bệnh. Vào đó được nằm cả ngày, không có bài vở, nhưng sẵn có cháo hoa ba bữa và thuốc Aspirin uống từng giờ! Cũng chả hấp dẫn là bao! Mà rồi khi mò ra vẫn phải hỏi lại bài bà con lối xóm để có thể theo kịp học trình.

Mấy hàng trên đây xem chừng quá bi thảm, nặng phần đe doạ và hơi tăm tối cho cuộc sống chủng viện. Thực ra, với đa số, lâu lắm mới gặp thấy cảnh thất vọng nản lòng thôi, còn thường thì bà con được kể là rất hăm hở trong việc học hỏi cầu tiến. Học cho mình và lại học dành cho tha nhân, biết bao giờ là đủ, biết thế nào là thừa! Bầu khí yêu thương của một đại gia đình như càng tạo thêm nét hăng say. Quên làm sao được những ngày cha giáo việt văn củ vào hai bên túi áo dòng nào cam nào táo để thưởng cho những trò chăm chỉ, xuất sắc, nhất là những đứa thích học và thuộc nhiều thơ phú như ngài. Rồi chúng tôi chắc sẽ nhớ mãi những ngày cha giáo môn toán áp dụng hình phạt ‘cọ râu’ vào má những tên nào hai lần liên tiếp có điểm dưới trung bình. Còn cha giáo anh văn thì vui khỏi chê: học trò nhớ dai ngữ vựng và chi tiết văn phạm nhờ vào những mẩu chuyện tiếu lâm gây cười lăn cười lóc. Đặc biệt nhất là cha giáo sư môn la tinh, lần nào cũng xuống lớp với cái túi vải đựng tên từng đứa học trò: xóc và bóc phải tên thánh nào thì thánh đó lãnh đủ cái màn trả bài chi tiết kỹ lưỡng khó mê. Tới năm cuối, mấy môn triết được trao phó cho hai giáo sư cáng đáng, một đấng thì đạo mạo cổ điển cơ hồ đức Khổng Tử bên trời đông, mà đấng kia lại tỏ ra văn minh phóng khoáng cứ như mấy nhà triết hiện sinh cõi trời tây. Thế là long hổ tranh hùng, lâu lâu có cuộc bàn luận tổng hợp, tư tưởng tương phản nhau như phun nước toé lửa. Lũ học trò chúng tôi cứ há hốc miệng ngồi tựa phỗng đá!

Ngày phải giã từ để về quê nghỉ hè trước khi bước lên trường ‘lớn’, tôi thấy vấn vương quyến luyến tưởng như chân đi không rời. Một chữ nên thày, một ngày nên nghĩa. Huống hồ tôi đã ở đây cả mấy năm trời. Quả thật ba mùa thu qua đi mà ngó lại cũng chỉ tựa một giấc mơ. Thế nhưng bao kỷ niệm đã ăn sâu vào lòng vào dạ, đánh dấu những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thiếu niên nhường chỗ cho tuổi thành thân vào đời.

Còn ngân vang mãi tiếng reo vui êm đềm như những Tấu Khúc Đồng Quê của nhà nghệ sĩ tài hoa Beethoven chúng tôi thường nghe vào giờ ăn tối. Còn đậm nét mãi trong tâm khảm từng người khuôn mặt hiền hoà đầy vẻ lo âu chăm sóc của các giáo sư đã vui vẻ hoả mình với chủng sinh trong nếp sống chật hẹp khó khăn. Là đây tôi cũng có dịp đặc biệt học hỏi và phát triển chút khả năng âm nhạc. Là đây tôi đã thực sự và nghiêm chỉnh nhận ra cái ý nghĩa của một ơn gọi cho đường chúng tôi đang đi. Mà cũng là đây tôi đã được cơ hội tập lãnh nhận trách nhiệm khi phải gánh vác việc chung qua ban chánh phó trường. Và nữa cũng là nơi đây tôi đã được chỉ vẽ để tập sống vui trong hết mọi hoàn cảnh và được in sâu và đầu óc rằng niềm vui chỉ xuất phát từ trong chính cõi lòng mình, chứ không do người hay sự vật nào khác bên ngoài.

Thật là ý nghĩa trong buổi họp mặt chào biệt các cha giáo sư, chúng tôi đã dõng dạc hát bản đồng ca bốn bè Exultate của nhạc sĩ Palestrina: như một lời dặn dò, như một câu nguyện ước sẽ giữ mãi được niềm vui trong đời.

Chúng tôi chia tay nhau, âm vang lời chúc cho nhau một đời sáng tươi thành tựu. Tôi bước chân lên xe mà nghẹn ngào khôn tả. Cơ hồ cái tâm trạng bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người của Thuý Kiều xưa. Lại một lần ra đi, để lại môt lần hiểu rằng giã biệt là mất mát, là thiệt thòi.



----------------------------------------------
Tá c giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 6. Giữa Lòng Giáo Há»™i Chuyển Biến Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

6. GIỮA LÒNG GIÁO HỘI CHUYỂN BIẾN


Ba năm lưu học ở Saigon đã ghi đậm nhiều kỷ niệm đáng nhớ, đã dạy tôi những kiến thức lạ, và nhất là đã chuẩn bị chúng tôi để đón nhận những biến chuyển lớn lao trực tiếp liên hệ đến cuộc sống mình đang hướng về.

Ngồi trên toa xe lửa hạng ba rời ga Bến Thành để về quê nghỉ hè qua ngả Phan Rang, ký ức chốc chốc lại sống dậy bất thần kéo tôi về với những biến chuyển cũ.

Vẫn biết mình đã từng bỡ ngỡ tự hỏi làm sao có được những ngày này, định mệnh nào đã dun dủi để mình có cái vinh dự nhiều người mơ ước như hôm nay, nhưng tôi càng thấy sửng sốt khi biết mình đang ở vào cái thời điểm trọng đại, cái khúc quanh lịch sử đem theo những thay đổi canh tân cơ hồ tận gốc rễ trong lòng Giáo hội, sau bao năm như im lìm bất động.

Những biến chuyển ấy là cho cả đoàn chiên Chúa, nhưng tiên vàn là cho tôi, cho những cán bộ tiền phong của cộng đồng tôn giáo. Chúng tôi đang chứng kiến những cố gắng để làm cho công cuộc tông đồ mình ấp ủ được thêm thích ứng, thêm hữu hiệu. Một nỗi vui, một niềm hãnh diện mơ hồ nổi dậy trong tôi, tựa hồ cái vui, cái hãnh diện của người hành khách hoả xa khi biết đường rầy đang được canh tân cho an toàn hơn, ghế ngồi được sửa sang cho thoải mái hơn và hệ thống an ninh được cải tiến cho bảo đảm hơn.

Tôi còn nhớ rõ lắm, nhớ từng chi tiết cái buổi kinh chiều, khoảng chừng ba tháng sau khi chúng tôi nhập học trường Phú Nhuận, khi mọi người vừa kết thúc phần lần chuỗi thì cha bề trên tiến lên trịnh trọng báo tin toà thánh La Mã đã quyết định thiết lập phẩm trật Hội Thánh tại Việt Nam, và các đức Giám Mục được chính thức nâng lên hàng chính toà. Phần vì chỉ nghe lõm bõm, câu được câu mất, phần vì cũng chưa nắm vững được ý nghĩa của sự kiện, nên thực tình tôi cũng chỉ hiểu lơ mơ giữa tiếng vỗ tay cười vang của mọi người. Nhưng rồi sau đó, bọn trẻ chúng tôi được giải thích tường tận để nhận ra rằng ai nấy đều phải hãnh diện và hoan hỉ với bước trưởng thành cũng như vị thế mới của Giáo Hội Việt Nam.

Bước tiến này quả thật là một khích lệ, một phần thưởng, một cất nhắc lên cao. Nhưng cũng là một thách đố, một gọi mời tới chỗ trách nhiệm nặng nề hơn, nghiêm chỉnh hơn. Và chúng tôi đấy, những kẻ sẽ giơ đôi tay ra nhận lãnh và ghé đôi vai vào gánh vác, chúng tôi sẽ phải viết những trang sử mới cho Hội Thánh và Quê Hương, chen vai với những giáo đoàn đàn anh đàn chị khác trên toàn thế giới.

Rồi Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc được tổ chức rầm rộ linh đình để ghi nhớ biến cố trọng đại này. Có sự tiếp tay hỗ trợ của chính quyền. Có sự hiện diện quý giá của vị Hồng Y đặc sứ thay mặt đức Giáo Hoàng. Có lễ nghi tấn phong nhiều Giám Mục mới. Có rước kiệu trọng thể. Có hội thảo xôm tụ. Rồi nữa, những buổi liên hoan và văn nghệ liên tiếp diễn ra. Tất cả đã cho mọi giới, dù là những thành phần trẻ trung nhất, cái cảm nghĩ rằng mình đã trưởng thành.

Trong suốt cả gần tuần lễ tham dự đại hội, anh em chủng sinh chúng tôi, chẳng ai bảo ai, đều tỏ ra hí hửng khác thường. Mặt tướng nào cũng như sáng hẳn lên. Mới chỉ là những chú bé đang tập tễnh vào đời tu và học hỏi lối sống phục vụ, nhưng tên nào cũng tự nhiên thấy mình như quan trọng hơn trước, cơ hồ mình đang nắm vận mệnh của cả tập đoàn Công giáo trong bàn tay!

Không hãnh diện sao được, một khi từ tình trạng ấu trĩ của một xứ truyền giáo nay được cất nhắc lên như một đơn vị vững vàng và bề thế, với chính thức một Hội Đồng Giám Mục riêng biệt. Chả khác chi niềm vui của môt dân tộc dành được độc lập sau những tháng năm lệ thuộc, dẫu rằng về phương diện tôn giáo thì vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Niềm hãnh diện ấy vươn cao, át đi cả những lo âu bởi nhìn thấy bao trách nhiệm nặng nề trước mặt, khi biết mình rồi phải đứng tự lập. Cụ thể là với các chủng sinh chúng tôi, phần giúp đỡ tài chánh trực tiếp của La Mã từ nay sẽ giảm đi hầu hết, để rồi ai nấy sẽ phải đóng góp phần chính vào chương trình ăn học của bảy năm tiểu chủng viện.

Với riêng hoàn cảnh của tôi, mẹ tôi thật ra cũng phải cố gắng nhiều hơn để dành thêm tiền lo cho tôi. Nhờ công việc làm ăn tại cao nguyên kể như đã ổn định và lại được cha đỡ đầu hỗ trợ phần nào nên mẹ tôi cũng đỡ ưu tư. Có thể trong đám bạn bè tôi đã có dăm bảy người phải khá chật vật, nhưng đa số thì hầu như không gặp trở ngại lớn lao. Có chàng còn biện bạch rằng mình phải đóng góp thế này mới công bằng, ít ra trong trường hợp bỏ trường tu ra ngoài sẽ không ân hận áy náy vì đã ăn cơm nhà Đức Chúa Trời quá nhiều!

Cũng trong dịp này, với các giáo phận chính toà được thiết lập tại các địa phương, các chủng sinh di cư chúng tôi cũng được yêu cầu đệ đơn gia nhập một nơi nhất định, sau khi đã mãn khoá chương trình Tú Tài từ những chủng viện liên hợp chuyển tiếp. Chuyện trở về quê quán miền Bắc kể như tạm xếp lại, bởi nó mịt mù xa vời quá, biết đâu mà ngóng chờ rồi rầu rỉ ngồi ca bản ‘Hồ mã tê bắc phong’! Trước mặt là môi trường hoạt động của miền Nam. Cánh đồng mục vụ truyền giáo bao la như đồng lúa miền Cửu Long, bát ngát chừng như vô tận.

Thế là các lớp đàn anh mở màn cho cái chương trình chọn lựa quê hương đầy hào hứng. Có ngài băn khoăn lưỡng lự cả mấy tháng trời, cầu nguyện lui cầu nguyện tới vẫn chưa thể an tâm quyết định. Chọn xứ Huế mộng mơ với sông Hương núi Ngự thì lại xa quá. Xin dậm chân tại thủ đô Sài Gòn thì tối ngày thở hít khói xe với bụi đường, mà còn bị bà con chê là nhát đảm không dám xông pha chiến địa. Có một kỳ, miền Hậu giang sông nước trở nên hấp dẫn đặc biệt để rồi các đấng đua nhau nộp đơn ghi danh: đất Cần Thơ đầy quyến rũ với hình ảnh một tây đô ngọt ngào quanh năm thơm mùi lúa chín. Rồi nữa, miệt Long Xuyên không kém vẻ cuốn lôi với một vị Giám Mục tân tiến hợp với tuổi trẻ không chê vào đâu được.

Cứ thế, một năm qua, rồi một năm nữa, tiếng lành đồn xa và tiếng dữ cũng đồn xa. Đến lượt lớp tôi, bà con đã tạm đủ có chút dữ kiện để phê phán định đoạt. Tuy nhiên, qua những buổi tĩnh tâm cấm phòng, chúng tôi được nhắc đi nhắc lại cái ý nghĩa của cuộc sống tông đồ, phải sẵn sàng ra đi bất cư nơi đâu mình được sai tới, như người thợ gặt lên đường tìm về những cánh đồng lúa chín. Bước chân tới những miền núi đồi cằn cỗi, khí hậu kém thuận lợi hay dân tình lãnh đạm khô khan, kể ra tự nhiên ai mà chẳng thấy ngần ngại e dè.

Nhưng một khi ý thức rằng niềm vui và thành quả tông đồ không đến theo những yếu tố bên ngoài, mà chỉ phát xuất nơi tâm hồn của những kẻ đặt trọn niềm tin vào quyền lực đấng Tối Cao, người thợ vườn nho Chúa sẽ nhìn ra đường nào phải đi và thái độ nào cần có.

Thế là ba mươi bốn anh em lớp đệ Nhất ‘liên hợp giáo phận’ chúng tôi đã chia nhau ra chọn đủ mười lăm vùng của Giáo hội miền Nam để tìm về phục vụ. Lên đại chủng viện là phải chính thức thuộc quyền một Giám Mục địa phương. Vị chủ chăn của mỗi giáo phận sẽ tuỳ nghi gửi học ở đâu hay nếu cần, có thể gửi liền ra giúp một giáo xứ nào đó. Bình thường bà con nào thuộc giáo tỉnh miền Trung sẽ ra chủng viện Xuân Bích ngoài Huế, và bà con đã chọn miền Nam sẽ học tại trường ‘Cường Để’ Sài Gòn. Thêm vào đó, theo như đa số hiểu, các vị Giám Mục sẽ lựa một số để gửi lên Học Viện Giáo Hoàng Piô X trên Đà Lạt (mới được thành lập và trao phó cho các cha dòng Tên điều khiển) nếu không muốn gửi qua học tại Roma.

Vào dịp chúng tôi mãn trường, nhân một chuyến lên thủ đô, cha đỡ đầu tôi (lúc đó đã được cử làm giám đốc tiểu chủng viện giáo phận Long Xuyên) đã đánh hơi thấy tôi có nhiều hy vọng về học vấn, nên bóng gió đề nghị nhận Long Xuyên làm quê hương mới, ám chỉ gần xa rằng ngài Giám Mục dưới nớ khoái gửi dân ‘học được’ qua Roma lắm. Tôi cũng tự nhiên thấy hứng chí, toan hạ bút đệ đơn theo ý bố nuôi. Nhưng rồi nghe đồn rằng trường Truyền Giáo ở phương trời nước Ý đó giờ đây đầy dẫy những cụ đen nhọ nồi được gửi từ Phi Châu tới, khiến cái mục học vấn xuống dốc thê thảm, khác hẳn những thời buổi vàng son ngày nào. Trái lại, tại quê nhà thiên hạ đang ca tụng ngôi trường trên Đà Lạt hết cỡ. Thế là, nếu chọn vùng đất cao nguyên và nếu thánh thần dun dủi đưa lên đó học, nhất định rồi sẽ phải khá hơn chuyện đi xa để học chung với…tây đen. Lại còn có vùng trời thơ mộng đầy hoa anh đào, có dịp thỉnh thoảng ghé về nhà làm nũng với má! Và dĩ nhiên, đường lên sơn cước phút chót được quyết định.

Có lẽ khi chọn lựa như thế, tôi đã tự mâu thuẫn với cái ý hướng phiêu lưu ban đầu, mà cũng có thể bị bà con bĩu môi chê bai là chưa thoát ra được cái tình cảm ấu trĩ ham ‘bú mẹ’, nhưng quả thật lúc đó tôi thấy mình vô phương chọn lựa cách khác. Cơ hồ ẩn hiện một bóng dáng của tiền định, một dấu vết của mệnh số!

Và rồi định mệnh cũng đã xui khiến để đức Giám Mục Đà Lạt chọn tôi lên học trên cao nguyên, y như nhiều người phỏng đoán và đương nhiên như chính tôi đợi chờ. Lúc nhận được tin, tuy không bỡ ngỡ cho lắm, nhưng tôi cũng không khỏi xúc động và vui sướng khác thường. Thế là cáo chết mấy năm lại quay về núi. Sáu năm xa núi rừng, dẫu trước đó chỉ là vài tháng mới làm quen đất Lạc Lâm, bây giờ tôi chính thức trở lại. Có thể sẽ là lần hồi hương vĩnh viễn. Rồi đây tương lại sẽ dính liền với vùng trời quanh năm mù sương với mưa bay lất phất. Địa bàn phục vụ sẽ xoay quanh và quấn chặt lấy những ngọn đồi, những khe suối và những rừng thông chạy dài tít tắp.

Ngồi trên toa xe lửa, tôi có cái cảm giác như một chinh nhân về thăm quê sau nhiều năm viễn xứ, dù cho năm nào tôi cũng về nhà nghỉ ít ra vào mùa hè. Đây không là chuyến xe tốc hành nên tôi đã khổ sở vì thấy toa tàu di chuyển quá chậm. Qua được ga này để chờ tới được ga khác là cả một quãng thời gian dài dằng dặc. Tôi bồn chồn mong trời mau sáng để được tàu đổ xuống mà gặp lại mẹ, mà lên trình diện Đức Cha và ghé coi trước ngôi trường mơ tưởng bấy nay. Trong toa xe, cơ hồ ai nấy đều gật gù ngủ. Tôi thì chịu không sao nhắm nổi mắt, mặc dù màn đêm bên ngoài lúc nào cũng dày đặc tối đen và thân tàu lắc nhẹ theo tiếng động đều đều của bánh sắt lăn trên đường rầy như gõ nhịp ru ngủ.

Tôi lan man nghĩ tới đoạn đường mình đã đi qua trong hai lần đổi chủng viện. Mới sáu năm thôi, nhưng đã đủ cho tôi nhiều kỷ niệm, lắm bài học và nhất là giờ đây đã nhào nặn tôi thành một thiếu niên khác biệt với những đứa bạn đồng tuổi. Ừ thì ngó lên mình chẳng bằng ai, nhưng lúc thử ngó xuống cũng nhìn ra khối kẻ…chưa bằng mình! Nào ai ngờ nổi cái ngày tôi vượt qua chương trình bảy năm trung học như hôm nay! Ai dám mường tượng một đứa bé quê, phiêu bạt vì chiến tranh, sau những ngày vật đổi sao dời và đất nước chưa hết cảnh tang thương ngẫu lục, lúc này lại ôm trong tay hai mảnh bằng Tú Tài để về quê ra mắt gia đình và họ hàng làng xóm như tôi giờ đây! Và còn hơn thế nữa, tương lai còn đang rộng mở đợi chờ để đưa bước chân tôi tới chỗ mà chẳng người nào dẫu chỉ một lần dám nghĩ tới. Không lẽ thánh cho ăn lộc, để rồi một Linh Mục sẽ xuất thân từ thôn Yên Tập? Khó tin quá! Mơ hồ quá! Đường dài gai góc, mình mới đi được một nửa, cái nửa khởi đầu bỡ ngỡ nhưng kể ra vẫn chưa gay cấn cho lắm. Trăm ngàn thử thách vẫn ở trước mặt, sừng sững ra đó. Như thác ngàn biển rộng.

Thế là tôi bỗng dưng lo sợ. Thật vu vơ và xa vắng. Nỗi lo bất ngờ như át cả nềim vui và hãnh diện ở mấy khoảnh khắc trước đây. Biết đâu một ngày nào, ở trên trường lớn, chán nản với những môn học khô khan, căng thẳng bởi những chương trình tu đức ngặt nghèo, tôi sẽ chẳng thất vong để rồi thối lui! Ai mà chắc được, khi chạm trán với những thử thách của một cuộc sống cô độc gay go, những đòi hỏi quá mức của giáo dân, mình sẽ không sờn lòng mà đành bỏ cuộc! Biết bao nhiêu gương đi trước rồi, người tông đồ nào mà chả tin vào sức hộ phù từ trên, nhưng rồi vẫn thường xuyên đối diện với những cơn khủng hoảng tưởng chừng làm tan vỡ cả một công trình lâu năm xây dựng.

Câu truyện cổ nổi tiếng từ Trung Quốc ‘Tây Du Ký’ vẫn mãi mãi là bài học để đời: một Tôn Ngộ Không kiêu căng cứng đầu, một Trư Bát Giới mê đắm tham lam cũng như một Sa Tăng cầu an lười biếng cũng chỉ là những hiện thân khác lúc nào cũng có thể thay thế cho con người chân tu khả kính Đường Tam Tạng. Kiếp tu nào mà chẳng đoạn đuờng gập gềnh qua Tây Trúc thỉnh kinh? Núi có cao, đèo có hiểm và thú có dữ mấy đi nữa cũng đâu có gay go bằng những cơn nổi loạn từ trong tâm tư của chính mình.

Tự nhiên tôi thấy rùng mình khi mường tượng tới hướng đi trước mặt và kiểm điểm lại đoạn đường đã để lại sau lưng. Chưa một lần thấy mình vững chãi đủ để có thể đương đầu với sóng gío cuộc đời. Cái con trùng Tham Sân Si, nói theo kiểu nhà Phật, ngày đêm vẫn tung hoành ngự trị trong tim trong óc. Những ham muốn trần đời cơ hồ vẫn là những sợi dây vô hình buộc chặt lấy bản thân. Đam mê này vừa được cố gắng dập tắt thì dục vọng khác lại âm ỉ dấy lên, như giòng sông uốn khúc nối tiếp bằng những con nước thác loạn xoáy gào. Vào những ngày được kể là an bình nhất, tôi vẫn thấy bóng dáng của ngu muội ở mỗi tối trước khi ngủ, và sự hiện diện của yếu đuối ở mổi sáng khi thức dậy. Lời kinh phụng vụ ‘Tinh thần thì sáng suốt nhưng xác thịt lại nặng nề’ lúc nào cũng phải là câu cảnh cáo nằm lòng. Nào ai dám nói mạnh với những siêu địch thủ như Danh, Lợi và Dục!

Tôi thở dài nhìn ra phía ngoài. Trời vẫn tối đen, nhưhg le lói từ phía đông đã thấy những tia hồng ở cuối chân trời. Có lẽ đoàn xe đã tới gần ga Sông Pha, để sửa soạn leo đèo Ngoạn Mục. Chặng đường hướng lên cao và làn ánh sáng lấp lánh phía xa bỗng dưng gợi lên chút lạc quan mơ hồ trong lòmg. Từ những rặng cây hai bên đã thấy tiếng chim ríu rút gọi nhau.

Tôi vội bước ra gần phía cửa để hít hà chút khí mát ban mai và bỗng đâu thấy lòng lâng lâng vui sướng. Đường nào mà chẳng chông gai! Kiếp tu dĩ nhiên là dẫy đầy thử thách. Nhưng thử thách với chông gai sẽ làm tăng thêm ý nghĩa và giá trị cuộc đời, nhất là những ai dám can đảm đi tìm cái giá trị và ý nghĩa ấy qua con đường dấn thân cho tha nhân.

Tôi lòng nhủ lòng như thế và rồi bất giác nở một nụ cuoời khi chợt nhớ tới cái biến cố trọng đại đã diễn ra từ hơn nửa năm hay: Công đồng Vatican II. Biến cố này vẫn đang tiến hành để cho cac vị chủ chăn trong Giáo hội Công Giáo có dịp nhóm họp và thảo luận mà canh tân đời sống tôn giáo. Tất cả đang chờ đợ được đổi mới cho hợp thời, được sửa sang cho thích ứng với một xã hội đang bước những bước tiến khổng lồ.

Công đồng nhắc lại cho tôi cái ý nghĩa và sự cần thiết của một cuộc sống không ngừng đòi cải tiến: mỗi ngày phải biến đổi từ chính bản thân mình cho rập khuôn mẫu của bài học tin mừng Phúc âm. Mà chuyện canh cải này có bao giờ đủ, có lúc nào thừa! Đổi mới từ gốc rễ, từ tâm tư, chứ không phải chỉ là thay sắc đổi màu như loài tắc kè kỳ nhông mỗi lần muốn lẩn tránh tàng hình. Gọi là đổi mới, nhưng thật sự chỉ là cố gắng để trở về nguồn, về con đường nguyên thuỷ lành thánh. Với con người mang đầy khuynh hướng xấu, một ngày sống là một cám dỗ bước ra ngoài khung khổ đẹp tốt ban đầu. Rồi nữa, giữa tình trạng phức tạp của một xã hội được gọi là văn minh nhưng càng ngày càng xa dần ánh sáng thần thêng, Giáo Hội đang nhìn thấy rõ cái nhu cầu phải đem đạo vào đời, phải trình bày hình ảnh Nuớc Trời sao cho hữu hiệu và thích hợp với tâm tư người đời.

Và đây, Công Đồng xuất hiện như một thách đố tôn giáo của thế kỷ hai muoơi. Giáo Hội đang duyệt lại thể chế và cơ cấu căn bản của chính mình, đang sửa đổi phụng vụ để tạo nên những cơ hội gặp gỡ thật sống động giữa tín hữu với Thiên Chúa, đang cổ võ những sinh hoạt dấn thân để gần gũi hơn với thế giới, đang hữu hiệu hoá những cố gắng truyền bá Tin Mùng, đang khích lệ những mối giao hảo thân thiện và hoà giải với các giáo hội anh em.

Đặc biệt hơn cả cho chúng tôi, những người đang xếp hàng ghi tên làm cán bộ Phúc âm, cụ thể qua vai trò Linh Mục, Công Đồng dự trù thảo luận tới những hai sắc lệnh khác nhau, một về công cuộc huấn luyện đào tạo, một về vai trò và sứ mệnh cao cả trong đời sống chứng nhân của Thày Chí Thánh. Nghĩa là nhiều chi tiết trong đường hướng mới đang chờ đợi chúng tôi. Những tháng năm sắp tới dĩ nhiên phải là những năm tháng thật trọng đại. Nội dung học hỏi cũng như phương thức đem ra thực hành sẽ trở thành những đề mục tân tiến hợp thời nhất. Chúng tôi sẽ hứng khởi đưa tay ra hái lấy những hoa quả đầu mùa giữa lòng Giáo hội.

Lúc ngồi trên chiếc xe Lam trên đường từ ga Đơn Dương về xứ đạo Lạc Lâm, tâm trí tôi vẫn lan man nghĩ tới những tháng ngày trước mặt, như hứa hẹn, như thách thức. Dẫu sao, nẻo đường vẫn thênh thang ý nghĩa và lối đi vẫn chan hoà ánh sáng.



-----------------------------------------
Tác giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 7. Khung Trời Thần Tiên Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

7. KHUNG TRỜI THẦN TIÊN


Thời còn phải học chương trình ‘Tập đọc và học thuộc lòng’ dưới tiểu học tôi rất thich bài Đi Học của Thanh Tịnh, và cho đến nay vẫn nhớ như in vào óc: “Hằng năm cứ vào cuối thu, là ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc…”. Và rồi, mỗi độ thu về, ở cái buổi tựu trường, tâm tư tôi lại như được sống dậy với những tình cảm, ký ức của thời thơ ấu được Thanh Tịnh diễn tả nhẹ nhàng êm dịu, nhưng thật là sâu đậm lai láng trong tập Quê Mẹ của ông.

Kỳ nghỉ hè sau dịp thi Tú Tài II đã qua đi mau chóng, mau ngoài sức tưởng tượng. Mấy tuần lễ xuôi miền Hậu Giang thăm cha đỡ đầu cũng trôi vèo như tên bay. Ngày nhập học trường lớn đã đến. Bỗng đâu cái cảm tưởng xa nhà lần đầu của sáu năm về trước lại tự nhiên lởn vởn trong hồn tôi. Mẹ tôi tiễn đưa, không còn bùi ngùi xót xa, nhưng là chứa chan hy vọng nơi đôi mắt để rồi cầu chúc cho tôi luôn bền lòng thẳng tiến, mong sao mộng cả chóng thành.

Ngồi xe lên Đà Lạt, không thấy lá ngoài đường rụng nhiều mà cũng chẳng nhìn ra đám mây nào bàng bạc trên không, chỉ thấy tâm tư rộn lên những nỗi bâng khuâng khác biệt. Khung trời cao nguyên nào có xa lạ gì, nhưng màu sắc của núi rừng hôm nay như tươi thắm hẳn lên. Năm nào tôi chả có dịp lên chơi thành phố thơ mộng này, thế mà đường đi giờ đây như thật mới mẻ. Bốn mươi cây số ngàn đã như dài ra thành gấp mấy, để mỗi khúc đèo, mỗi khe suối, mỗi chòm thông lại gieo vào tâm tư tôi một cảm giác đê mê, dù chỉ là rất vu vơ nhẹ nhàng. Trong đầu, tôi nghe như vang vẳng đâu đây lời ai hát, qua ca khúc Đường Lên Sơn Cước đầy tình tứ gợi cảm đã từng phổ thông khắp Trung Nam Bắc.

Tôi biết những cảm xúc trong lòng đã khiến cho cảnh vật bên ngoài như cảm xúc theo. Một niềm rạo rực mơ hồ nào đó đã làm cho mắt tôi thấy bốn bề lá hoa cây cỏ cũng tựa hồ nhảy múa reo vui. Rừng núi ban mai còn như ngái ngủ, đã lấy gì làm quyến rũ, bỗng trở nên tuyệt diệu đến độ tôi thấy hối tiếc vì mình đã không là thi sĩ để làm thơ ca tụng thiên nhiên.

Khi chiếc xe đò đổ chúng tôi xuống khu chợ Hoà Bình thì mặt trời đã xuyên qua làn sương mai dày đặc để đổ nắng chan hoà trên vùng trung tâm thành phố. Mặt nước hồ Xuân Hương như được ánh dương đánh thức sau một đêm dài giá lạnh, còn mịt mờ những sương những khói. Xung quanh, xe cộ vẫn còn thưa thớt. Chợ búa chưa thấy đông người, chỉ trừ phía tầng trệt các quầy hàng bán hoa và rau cỏ như đã nhộn nhịp từ sớm.

Theo chương trình của ngày tựu trường, chúng tôi chỉ phải có mặt trước năm giờ chiều. Sở dĩ tôi phải lên sớm, một phần mỗi ngày chỉ có hai chuyến xe đưa khách lên Đà Lạt buôn bán hay lo công chuyện tuỳ lúc rạng đông, một phần vì đức Giám Mục có nhã ý mời hai lính mới chúng tôi dùng cơm trưa với ngài. Ông tân binh kia thì quê quán ở mãi vùng Biên Hoà Hố Nai chi đó nên dự tính rời nhà từ hôm trước, và có lẽ đêm qua đã tá túc tại nhà thờ chính toà. Thế là tôi quyết định cuốc bộ ra gặp ông bạn đồng môn chưa hề biết mặt, xem chừng đây là lần đầu đặt chân tới cao nguyên, còn ngượng ngùng trong chiếc áo lạnh vừa mới bóc tem.

Rời nhà thờ tỉnh, chúng tôi men theo bờ hồ hướng về toà Giám Mục, nhưng rồi sực nhớ vẫn còn quá sớm, thế là cả hai đồng ý thuê một chiếc pédalo để cùng bồng bềnh đạp chơi trên nước. Khung trời và hoàn cảnh mới đã bỗng dưng kéo lôi chúng tôi, từ chỗ hoàn toàn xa lạ, trở thành đôi bạn tình cờ, hôm nay gặp nhau qua cùng chí hướng, đồng lý tưởng, để mai sau bên nhau phục vụ với chung một mục đích. Rồi đây, ở những tháng ngày trước mặt, chúng tôi sẽ ngồi chung một lớp học, chia sẻ cùng những bài vở giống nhau. Sẽ được chỉ dẫn, được huấn luyện bởi cùng một loạt giáo sư và linh hướng, đối diện với những buồn vui và thăng trầm cùng một chuỗi ngày học viện đằng đẵng.

Buổi tao ngộ sáng nay đã khởi sự cho chặng đường song hành tương lai đó. Chúng tôi đã chân thành bày tỏ hết niềm vui và cùng trao đổi những ước mơ thầm kín nhất. Để rồi, với chưa đầy một giờ trên chiếc xe đạp nước dọc ngang trên mặt hồ, chúng tôi đã hiểu nhau thật nhiều, từ cuộc sống bản thân cho tới những nhận định về con đường đang cùng đi tới. Nước hồ còn khá lạnh mà có lẽ cả hai cùng thấy lòng ấm hơn. Ưu tư cùng được san sẻ đã cơ hồ làm nhẹ vơi những băn khoăn lo sợ. Có thể ngày nào đó một kẻ sẽ trở thành chàng Dương Lễ công thành danh toại, còn người kia sẽ mang số phận hẩm hiu của chú Lưu Bình. Chỉ có trời biết. Còn chúng tôi, điều mơ ước duy nhất lúc này là sẽ được sát cánh bên nhau dài lâu.

Ở một lúc thinh lặng, tôi đã nghe âm vang một nỗi vui sướng đang lan toả trong hồn, không phải theo kiểu thi nhân Hàn Mặc Tử khi ông say sưa tả nét quyến rũ ngất ngây của cảnh Đà Lạt trăng mờ huyền thoại, gói ghém trong cuộc tình man dại liêu trai, nhưng là niềm hoan lạc thanh khiết thầm kín cộng với tâm trạng phấn khởi của một kẻ đang vui gieo bước đăng trình, lối đi ngập vạn cánh hoa nở hai bên và rộn muôn tiếng chim ca trên đầu.

Lúc chúng tôi bước vào thềm toà Giám Mục thì đã thấy người thư ký mở sẵn cửa đon đả mời vào, chừng như Đức Cha đã căn dặn anh ta từ trước. Và rồi cuộc gặp gỡ đầy ân cần đã diễn ra: vị chủ chăn cả giáo phận đã khơi thêm cho hai chúng tôi những niềm khích lệ mới. Ngài đã cơ hồ muốn đưa rộng vòng tay ôm đón, muốn cởi mở hết nỗi lòng thương yêu của người cha để ủ ấp vỗ về. Bữa ăn trưa lần đầu tại toà Giám Mục hôm ấy cũng không khỏi gây xúc động khác thường khi Đức Cha tự tay lấy đồ ăn để serve cho chúng tôi. Tôi bỗng có cái cảm tưởng mông lung rằng từ nay mình hết bơ vơ lạc lõng. Giáo phận Đà Lạt bây giờ chính thức là đại gia đình. Đã đầy đủ cha con, anh em. Chắc hẳn các Linh Mục và Tu sĩ khác cũng đang hân hoan chào đón chúng tôi ở cái ngày trọng đại hôm nay.

Rời toà Giám Mục để theo con dốc quặt dẫn lên học viện, tôi nghe như những lời dặn dò khuyên nhủ của Đức Cha còn âm vang trong lòng. Ngôi trường cách bờ hồ chẳng bao xa, và biết thời gian còn dư dả, chúng tôi quyết định lại dừng chân bên một rặng thông trên sân cù phía tay phải. Nắng chiều đổ dài trên lớp thảm cỏ xanh chạy xa tít về hướng lò nguyên tử và lycée Yersin. Làn gió nhẹ thổi qua chòm lá thông nghe vi vu đâu đó. Là đây hình ảnh dịu dàng của một thị trấn nghỉ mát hàng đầu của cả nước. Cũng là đây bầu trời êm ả với khí hậu lý tưởng bao người hằng ước mơ. Người dân Đà Lạt có lẽ chẳng cảm thấy cái đặc biệt của địa phương mình là bao, nhưng với một người vừa mới lặn ngụp trong khung cảnh bụi bặm oi nồng của Sài Gòn mấy năm trời như tôi, Đà Lạt đương nhiên trở thành khung trời thần tiên.

Ngồi nhìn làn nước hồ xanh thẳm in bóng hàng thông trùng điệp, tôi ngẩn ngơ tưởng chừng mình đang trong mộng. Xa xa, ngôi tháp nhà thờ lớn cổ kính kiểu gothic, với hình con gà kim loại gắn cao trên cây thập tự mãi đỉnh tháp, nổi bật lên giữa nên trời trong vắt. Quay về phía sau thì sừng sững ngọn Lâm Viên ngất ngưởng, như thách đố mời mọc.

Tôi biết Đà Lạt chỉ là một thị trấn nhỏ bé, bé đủ và đẹp đủ để được mô tả là xinh. Du khách mến Đà Lạt qua hồ Than Thở, qua rừng Ái ân, qua thác Cam Ly, qua Suối Vàng, qua Thung Lũng Tình Yêu v.v… Đà Lạt có bầu khí tuyệt vời để hoa anh đào có thể nở, có đất đai thích hợp cho vườn mận luống dâu. Và nữa, Đà Lạt hãnh diện với những cơ sở văn hoá và huấn luyện. Nổi tiếng là trường Võ bị Quốc gia, đại học Chiến tranh Chính trị, trường Chỉ huy Tham mưu. Bên đạo cũng có phần đóng góp không nhỏ, với viện đại học Công giáo nổi danh, với collège d’Adran giáo dục nghiêm minh, với trường Oiseaux đầy nhóc nữ sinh nhà giàu, và hôm nay nữa, sự hiện diện của Giáo Hoàng Học Viện tân kỳ mới mẻ và đầy hứa hẹn này.

Thoạt nghĩ tới đó mà lòng tôi đã thấy nhịp tim đập mạnh hơn. Rõ lạ! Chả hiểu đầu đuôi thế nào mà bỗng dưng thấy phấn khởi hứng thú trong hồn mình như vậy, tôi chợt như hơi mắc cỡ, cơ chừng đỏ cả mặt khiến ông bạn bên cạnh phải cất tiếng hỏi:

- Cậu đang nghĩ gì mà say sưa mơ màng thế?
Tôi giật mình rồi chống chế:
- À tớ thử tưởng tưởng hai chúng mình đang đóng vai Lưu Thần và Nguyễn Triệu bước vào thiên thai.
Ông bạn cười:
- Không ngờ cậu cũng mộng làm thi sĩ!
Tôi làm bộ tỉnh bơ:

- Lâu lâu có dịp mình cũng nên mộng mơ một chút cho đời lên hương. Bây giờ chúng mình bắt đầu là người Đà Lạt, tại sao không cứ tưởng tượng đây là thành phố đẹp nhất trần gian cho thêm phấn khởi. Vả lại sau những năm chen chúc miền đô thị đầy bụi đường, lên đây cậu không có được chút nào cái cảm giác khoan khoái tựa bước vào chốn thiên thai hay sao?

Ông bạn cũng hóm hỉnh:
- Thì cũng thấy thích thú, nhưng chỉ sợ chưa kịp thưởng thức cái thú ấy được bao lâu, thì đã có người nhớ miền hạ giới rồi mong mỏi ược từ giã chốn đào nguyên tiên cảnh!

Tôi không đáp, lẳng lặng kéo tay ông bạn đứng lên đi nốt con dốc dẫn vào học viện. Sương lam đã rơi nhẹ đây đó và gió cũng như bắt đầu lạnh hơn. Lác đác đã thấy bà con tựu trường theo những chuyến xe lam từ phố chợ vào. Mỗi bước chân là như thấy mỗi hồi hộp, nhất là lúc tới gần hàng chữ nổi ‘Giáo Hoàng Học Viện Piô X’ gắn trên trụ cổng. Hàng chữ cứ như nhảy múa trước mắt. Chẳng phải bàng hoàng bởi toà nhà bốn năm tầng đồ sộ, không chỉ xúc động vì khung cảnh học viện uy nghi, nhưng tôi thấy một điều chi rất mơ hổ mầu nhiệm đang khiến mình thực sự rung cảm xúc động. Có thể tôi nghĩ vè cái diễm phúc mình chẳng đáng mà hôm nay được hưởng. Có lẽ tôi hướng về bàn tay siêu phàm từ trời cao đang nâng dắt mình vào chốn cao sang thần thánh. Tôi nào có mơ màng chi đâu! Tôi ý thức thật rõ mọi diễn tiến, thật kỹ từng chi tiết của thời quá vãng. Cơ hồ tôi vẫn chỉ như đứa trẻ lên mười của ngày rời xứ Bắc hôm nào.

Thế là chỉ có cái tâm tư là xem chừng khác biệt với những lần tựu trường trước. Ngoài ra các thủ tục lỉnh kỉnh ngày đầu thì cũng đại khái giống nhau. Bạn bè thì trước lạ sau quen, chả có chi để bỡ ngỡ sợ sêt. Các cha giáo thì vị nào vị nấy đều ân cần tử tế cả. Riêng có một chi tiết khiến lắm chàng lính mới tò te như tôi phải chột dạ là cái thông cáo cho biết ở đây tiếng Pháp sẽ là ngôn ngữ chính của trường (hiểu theo nghĩa rộng thôi, chứ đời nào bà con mình lại không dùng tiếng mẹ đẻ lúc trà dư tửu hậu!). Thật ra, chúng tôi đã học Pháp văn nhiều năm, văn phạm cũng như ngữ vựng thì kể như khả quan, chỉ ngặt là chưa có dịp thực hành. Đó âu cũng là phần thiếu sót của hệ thống dạy sinh ngữ dưới trung học. Nhất định rồi mai đây nhiều mạng sẽ vất vả toát mồ hôi vì phải bổ túc bằng ngôn ngữ…chân tay mong người khác hiểu được mình.

Lúc được đưa lên nhận phòng ngủ mới lại càng làm tôi xúc động ngỡ ngàng. Từ bé đến giờ, có khi nào mình được làm chủ một căn phòng riêng nào đâu! Ôi chao, lúc này trước mắt tôi nào giường đệm với khăn trải trắng muốt, nào tủ quần áo với ngăn nọ ngăn kia, nào bàn học riêng kê gần cửa sổ toàn bằng kính nhìn suốt tới cả ngọn núi Lâm Viên đằng xa. Tôi bùi ngùi nhớ lại những tháng năm dưới tiểu chủng viện, với phòng ngủ chật chội, với giường nằm xấu xí: hình ảnh cũ như còn in rõ trước mắt để rồi thấy thương cho những ngày qua. Tôi vẩn vơ thầm nghĩ nếu cứ kéo dài cảnh huống đó mãi, chuyện lạc hậu và cơ cực đã đành, nhưng có lẽ sẽ làm cho chúng tôi ấu trĩ hoài, bởi thức ngủ như một cái máy, mọi tác động luôn rợp khuôn người chung quanh. Bây giờ phòng ngủ riêng có thể là một thử thách cho việc xử dụng tự do, nhưng quả thật sẽ cho chúng tôi cơ hội tập trưởng thành và biết tự chế.

Xách va li bước vào phòng, tôi chợt nghĩ đến câu nói của thi hào Walt Whitman mà năm ngoái chúng tôi phải đọc tới khi học về lịch sử văn chương Hoa Kỳ: “Người ta chỉ là…người ta một cách đầy đủ trọn vẹn khi làm chủ một mảnh đất và một căn nhà”. Lúc này tôi không có đất mà cũng chẳng có nhà, cũng như chưa một lần mơ ước có chút của cải gia tài, nhưng bỗng dưng thấy mình cơ hồ ngự trị ở một vũ trụ riêng một giang sơn riêng, mà cơ sự chỉ vỏn vẹn ở chỗ cánh cửa mở đóng và ánh đèn bật tắt là tuỳ ở một mình mình. Vẫn biết cái cảm tưởng ấy thật ngây ngô tức cười, nhưng tôi vẫn sống với những ý nghĩ tức cười ấy hầu trong suốt cả niên học đầu trên cao nguyên.

Giáo Hoàng Học Viện trực thuộc toà thánh Vatican, được mở ra giúp cho các sinh viên của cả ba nước Việt Miên Lào có dịp hấp thụ một chương trình huấn luyện quy củ theo tiêu chuẩn quốc tế, rồi lại được bàn tay của các Linh Mục dòng Tên thuộc nhiều nước khác nhau lo lắng chăm sóc, nên tuy mới góp mặt với Giáo hội Việt Nam được mấy năm mà danh tiếng đã đồn xa khắp chốn. Hội đồng Giám Mục đã thật khéo léo khi chọn Đà Lạt làm địa điểm cho ngôi trường này. Toạ lạc chỉ cách viện Đại Học Công Giáo khoảng hai mươi phút đi bộ, Giáo Hoàng Học Viện hiện diện như một hỗ trợ hùng hậu qua ban giảng huấn cũng như với ba tầng thư viện đầy đủ tài liệu sách vở về Triết và Thần học. Cây thập giá trên sân thượng Học Viện cộng với ngọn tháp cao vút của trường Đại Học cơ hồ muốn nói lên rằng tinh hoa của nền văn hoá Công giáo đang quy tụ nơi góc trời này.

Bà con chúng tôi thấy thật vui và cũng hãnh diện vì được dịp chen chân vào vùng trời của biển thánh rừng nho. Chỉ đọc sách, chỉ học hỏi riêng cho mình thôi cũng thấy sướng thấy vui, huóng hồ khi biết mình đang trau giồi kiến thức để mai jày đem ra chia sẻ và phuc vụ. Nếu các cụ xưa bảo rằng mỗi cuốn sách là một người bạn, thì nơi đây chúng tôi thực sự được diễm phúc làm quen với vô số bằng hữu đủ loại. Dĩ nhiên, ngoài những sách giáo khoa căn bản, chúng tôi còn được chỉ dẫn và khuyến khích đọc những sách hữu ích giúp mở rộng tầm hiểu biết phổ thông mọi mặt. Sách lịch sử, triết học, văn chương, khoa học hay tôn giáo thì dồi dào đã đành, mà cả các thứ sách bình dân, thậm chí cả những pho truyện Tàu cũng được tìm tòi mang về góp mặt cho đầy đủ kim cổ đông tây. Thành ra, sau những đợt thi cử sát hạch khiến nhoài người mờ mắt, bà con chúng tôi, nhất là với những mống say mê ngọn bút thần sầu của nhà danh tác Kim Dung, lại có dịp chuyền tay nhau những tập chưởng hay kiếm hiệp đương thời gây sóng gió khắp nơi như Tiếu Ngạo giang hồ, Anh hùng xạ điêu v.v…

Nói đến chuyện học hành thi cử ở Giáo Hoàng Học Viện thì chả mấy mạng xem ra ham cho lắm. Tuần này liên tục tuần khác, tháng nọ nối tiếp tháng kia. Mà điểm cứ phải trên trung bình theo cái tiêu chuẩn ít ra là sáu trên mười của các đấng dòng Tên, bằng không thì cứ ô tô ma tích học lại để…lại được thi.

Học trình được gi rõ ràng với bốn năm dầu dành cho Triết Học và bốn năm sau là của Thần Học chuyên biệt về đạo giáo, sau một năm đi thực tập bên ngoài. Thực tế, khi được đọc cái bảng liệt kê những môn phải trải qua trong những năm Triết, chúng tôi mới thấy rằng cơ hồ đây là chương trình ‘bách khoa’, dẫu cho nhiều môn chỉ là tổng quát cơ bản, như lớp học về vật lý hạch nhân và nguyên tắc chế tạo bom nguyên tử!

May mắn nơi đây có khí hậu ngon lành, có phòng ốc rộng rãi, có phương tiện sinh hoạt giải trí dồi dào cũng như có sân chơi thể thao đầy đủ, nên đầu óc bà con cũng không sợ bị căng thẳng cho lắm. Với ruêng tôi, vốn đã ham mê bóng tròn và bóng chuyền từ lâu, bây giờ được dịp thoả chí tung hoành. Chỉ cần một giờ chạy nhảy với đầm đìa mồ hôi là đủ bù lại cho cả một ngày tù túng trong lớp và cũng đủ kéo đi mau lẹ hai giờ học riêng liền sau đó, để rồi đồ ăn nào cũng thấy là ngon trong bữa ăn tối.

Trong cái khí thế vừa vui vừa ham thể thao đó, tôi dần dà nhận ra cuộc sống mỗi mgày mỗi như huy hoàng thêm, ý nghĩa thêm. Những trận đấu banh giao hữu với các sinh viên đại học cũng như các quân trường, nhất là sau những trận chiến thắng mà tôi được góp phần tham dư, đã vô tình tăng thêm niềm tự tin và tạo phấn khởi không ít. Thế là, trong khi luôn chân nhận những đặc ân trời ban, trong việc học và ngay cả ở chuyện chơi, tôi không ngừng nhủ bảo mình: ai nhất thì ta thứ nhì, mà ai hơn nữa ta thì thứ ba. Như một lời tự khích lệ, tựa một phương châm để lạc quan tiến bước.

Và cứ như vậy, tôi bước tới bằng tất cả hăm hở mê say, tựa hồ thời điểm hoàng kim đang rạng ngời trước mắt. Tháng ngày tu học như vèo trôi theo làn gió mát cao nguyên. Hướng đời như đã định rõ và đang nắm vững trong đôi tay. Khung trời Đà Lạt cứ mỗi ngày mỗi ru vào cõi mộng. Chúng tôi liên tiếp có dịp du ngoan những thắng cảnh nổi danh nhất. Thác Prenn, Pongour, Suối Tiên, Suối Vàng, Hồ Than Thở, Thung lũng Tình Yêu. Mỗi nơi một vẻ quyến rũ. Mỗi chốn một điệu hấp dẫn khác nhau. Nhưng tất cả đã cùng tạo cho tôi cái cảm giác hân hoan vì thấy mình đang thực sự ở một khung trời tuyệt diệu, đồng thời cũng như vô tình khích lệ thôi thúc chúng tôi thẳng đường mà vui bước.

Tôi đã cảm được cái may mắn, cái diễm phúc đó tự ban đầu. Tâm tư cơ hồ vẫn trọn vẹn và dứt khoát hiến dâng. Chưa một lần thật sự thấy tơ vương ngang dọc hay mơ mộng viển vông. Nhưng rồi cái thơ mộng của trới cao nguyên đã hiện ra như một con dao hai lưỡi. Nó có thể hướng kéo tâm hồn lên cao, nhưng đồng thời cũng có sức gây nên những phút giây xao xuyến lãng mạn trong tim trong óc. Thơ mộng hay gắn liền với giao độmg xôn xao, với tuởng tượng phong phú, với thương nhớ vẩn vơ. Đôi lúc tình cờ nào đó, tôi cũng thấy bóng dáng của một vài xôn xao, một ít giao đông xuất hiện trong hồn.

Từ lâu, chúng tôi đã được hướng dẫn để nhận định và hoá giải những xao xuyến tự nhiên của một con người, nhất là của những lớp con trai ở lứa tuổi đôi mươi của chúng tôi, theo bước đường của những kẻ tình nguyện quên niềm riêng mà phục vụ Nước Trời, nhưng con tim và mạch máu nhân loại vẫn còn đó để rồi bao lần cũng phải nhẹ rung khi tình cờ thấy một bóng hồng nào đó thấp thoáng dưới rặng thông hay bước đi tha thướt trong làn sương lam cuối dốc. Qua thơ văn hay ca nhạc, Đà Lạt vẫn được mô tả như thành phố của tình yêu say đắm. Thành ra con người sống ở Đà Lạt cơ hồ cũng bị lây cái nét đa tình vương vấn, qua hương trời bát ngát, qua mây nước bâng khuâng.

Kẹt cho tôi hơn nữa là hướng cửa sổ phòng mình lại quay về phía trường nữ trung học Bùi thị Xuân, mà cũng không xa đoạn đường các sinh viên từ phố đi bộ lên đại học là mấy: thế là bóng hồng ngày nào cũng tới tấp tung bay ngay trước tầm mắt. Riêng với các nữ sinh bên trung học, chẳng biết có phải vì thấy các người bạn hàng xóm bên học viện luôn hiền khô, hay bởi một duyên cớ nào khác, mà lắm nàng xem ra thật táo bạo đến độ như khiêu khích, cứ rũ nhau ra đứng kế hàng rào ngó qua để nói cười, để tủm tỉm! Kế bên trường lại là ngọn đồi sân cù cỏ xanh mướt, chiều nào cũng được các nàng chiếu cố dung dăng dung dẻ dạo chơi, áo trắng nổi bật dưới nắng vàng. Cũng ở một buổi tình cờ, tôi đọc đến đoạn thơ của Hàn Mặc Tử:

Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo ai trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà.


Đoạn thơ vô tình tạo xao xuyến bâng khuâng. Vẫn biết mình không thể giàu tưởng tượng như thi sĩ họ Hàn. Tôi cũng chẳng có mối tình nào để đo lường, để so sánh xem ai mặn mà hơn ai. Nhưng tôi bỗng thấy yêu thơ, mơ hồ như làn gió, êm nhẹ như áng mây, để rồi ở một phút cuồng say, tôi hầu quên hẳn cuộc sống hiện tại của chính mình mà tưởng tượng đang bước đi ngập tràn mê đắm hoang dại.

Biết được cái địa thế độc đáo của ngôi trường chúng tôi như thế, nhiều anh sinh viên trường Võ Bị khi qua dự những buổi đấu banh giao hữu, đã bông đùa tỏ ý hờn ghen với chúng tôi, cho rằng đời thật bất công, trong khi họ cần họ muốn thì phải ở chỗ xa lắc xa lơ, có vác ống nhòm tìm mỏi mắt cũng chẳng thấy bóng giai nhân nào. Và rồi một ông bạn nhanh miệng đã biện bạch rằng Học viện này được chủ ý xây vào chỗ…hiểm nghèo này là để tạo thử thách và trui luyện ‘chí khí’.

Thế là, không tin cũng phải đồng ý. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những bóng dáng thướt tha qua tháng năm liên tục đó đã vô hình chung trở thành lửa, thành gian nan cho gần hai trăm mạng người đang học làm ‘anh hùng’ cho ngày mai. Rồi sẽ có nhiều kẻ chiến thắng hiển hách, nhưng chắc rồi cũng sẽ có lắm người đầu hàng thối lui. Chả biết phần tôi sẽ ra sao, nhưng một khí sức thần thiêng nội tại không mạnh đủ để đỡ nâng lôi kéo, tránh sao khỏi chuyện lùi bước tan hàng. Nào ai đang là thánh sống chốn này! Một ngày bước đi là một ngày có căng thẳng thách đố. Và thách đố mãi còn đó cho đến cuối đời.

Cũng may cuộc sống cộng đoàn đã là một yếu tố hệ trọng để chúng tôi cùng nhau lướt lên trên được những khó khăn tự nhiên của một người đời. Đã đành những tâm tư thầm kín đều khác biệt cho mỗi người, đều nằm tận đáy hồn của từng cá thể, nhưng một khi ý thức rằng bên cạnh mình, xung quanh mình còn có bao nhiêu đồng bạn cũng đang can đảm, đang hăm hở tiến lên, cùng đang chia sẻ những vui buồn của lý tưởng tông đồ cao đẹp, chúng tôi đã tự dưng thấy thêm hứng khởi và hy vọng nhiều vào đường mình đi.

Vừa do học kinh nghiệm nơi người khác, vừa do đọc sách vở cũng như ngẫm nghĩ về bản thân, tôi đã ý thức được tình bạn như một báu vật trong đời. Tuy nhiên trong tương giao bằng hữu, chẳng dễ gì để giữ mãi được niềm kính trọng nhau mà không khách sáo, thân mật nhưng không suồng sã, quảng đại thứ tha mà vẫn dám sửa lỗi cho nhau. Cái gương Thúc Nha và Quản Trọng bên Tàu thuở nào vẫn sáng chói trong tâm khảm tôi. Cũng chẳng quên được bài học rộng lượng dễ dãi của lời các cụ ngày xưa dạy lại: Thủ chi thanh sắc, tắc vô ngư; nhân chi sát, tắc vô đồ. Nước quá trong chẳng có cá; Kẻ hay xét nét, làm sao có bạn!

Thật hên cho tôi đã sớm nhận ra cái nguyên tắc cơ bản đó để tâm hồn được thêm nhẹ nhàng trên bước chân tiến theo tiếng gọi trên cao. Buồn vui có chỗ mà gửi gấm. Thăng trầm có nơi để thổ lộ. Đường tu nhờ vậy mà như thêm gấm thêm hoa.

Học viện của chúng tôi không phải một cộng đồng khổ tu chiêm niệm, nên chuyện giao thiệp vui đùa xảy ra hàng ngày. Tháng này qua năm khác, tám khoá học thường xuyên gặp gỡ đổi trao. Bạn bè đủ mặt cả ba miền Trung Nam Bắc. Hoá ra tha hồ tìm chỗ tâm sự, thiết thân. Mặc sức kiếm người hợp chuyện mà trao đổi. Đặc biệt nơi đây, mấy ông ‘quỷ sứ’ ưa đi chọc ghẹo thiên hạ tự do tung hoành. Vui cười cũng lắm mà gây giận dỗi cũng nhiều. Khổ thân cho mấy tướng yếu bóng vía, đầy mặc cảm, luôn là cái đích cho bà con trêu chọc, nhiều phen phải khóc lên mới tha cho.

Thấm thoát một năm học đã trôi vèo. Hè tới không nghe thấy tiếng ve, nhưng nắng và gió xôn xao ngoài ngõ như nhắc nhở, giục giã. Giờ học cuối cùng đã chấm dứt. Buổi thi khảo chót đã thông qua. Thiên hạ cơ hồ khăn gói sẵn sàng lên đường đi nghỉ ba tháng. Ai nấy hớn hở ra mặt.

Tôi cũng hồi hộp không ít. Chẳng phải vì nhớ nhung bạn bè hay ban giáo sư. Cũng chẳng bởi tiếc mấy cái sân banh đầy hứng thú cả năm. Nhưng khi mường tượng đến lúc về tới nhà, khi phải ra mắt bà con và xuất hiện lần đầu tiên nơi thánh đường với tấm áo dòng xúng xính, tôi tự nhiên thấy như muốn lên cơn sốt. Rồi nữa, người ta sẽ bắt đầu kêu mình với danh hiệu ông ‘thày’. Ớn ơi là ớn! Và từ nay, đi đứng sẽ phải khoan thai, nói năng sẽ cần dịu nhẹ. Chiếc áo chẳng làm nên thày tu. Nhưng bây giờ chiếc áo sẽ buộc kẻ đi tu vào khuôn khổ với phép tắc. Cái tự do của tuổi trẻ bị cắt giảm mất rồi. Màu áo mới sẽ đòi kẻ mang nó tạo nên một lối sống gương mẫu cho trăm mắt nhìn vào, cho ngàn miệng chê khen bình phẩm. Tôi bàng hoàng bước lên chiếc xe đò có lẽ năm ngoái đã đưa tôi lên đây. Lòng nửa hân hoan, nửa lo sợ. Tự nhiên thấy đường ‘xuống núi’ hôm nay khác hẳn. Tiếng chim hót, tiếng suối reo cơ hồ tan loãng vào khoảng không xa vắng, mịt mờ.



------------------------------------------
Tác giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 8. Những Chặng Đường Tiến Lên Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

8. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG TIẾN LÊN


Theo thông lệ, sau bốn năm triết, anh em chúng tôi được các Giám mục chỉ định đi thực tập một năm. Phần lớn ra ‘giáo xứ’ tại một họ đạo nào đó, vừa để học hỏi những kinh nghiệm mục vụ về mọi mặt, vừa để thử sức mình xem cuộc sống tông đồ mai sau có thể thích hợp được không. Trong cái mục đích hỗn tạp học, giúp và thử ấy, một số tướng được may mắn tới công tác tại một giáo xứ tương đối thoải mái ngon lành, nhất là với một Linh Mục quản xứ dễ chịu, thông cảm. Nhưng một số hẩm hiu, tựa…hạt mưa sa phải vũng lầy, nhận chỗ đã nặng nề công việc mà lại gặp phải một ‘má chồng’ nghiêm khắc ưa bắt bẻ hạch sách, tha hồ mà nhăn nhó than trời. Cũng bởi cái mục thử thách lỉnh kỉnh này mà giới nhà tu đã đặt mấy cố sở khó tính vào sổ ‘kinh cầu kẻo’, ai cũng mong tránh cho bằng được.

Một số còn được cử về dạy học và tổ chức sinh hoạt ở tiểu chủng viện của giáo phận (đôi khi giúp một trường trung học công giáo lớn nào đó). Tháng ngày lại luẩn quẩn với lớp học, với chuông reo, với luật lệ tập đoàn. Phần lớn không mấy hài lòng với cái màn thử thách nhẹ phần ý nghĩa này, cho nên một số xin được gửi ra ‘tiền tuyến’ họ đạo.

Tôi đã tình cờ ở vào cái trường hợp nói trên, và rồi, khi thấy tôi ngỏ ý được nếm mùi thày xứ, đức Giám Mục Đà Lạt đã dễ dàng chấp thuận để cử một ông thày khác từ đại chủng viện Sài Gòn thế chân, và chuyển tôi đến ‘tiền đồn’ Tân Hoá, thuộc quận Bảo Lộc.

Ngày khăn gói lên đường, tôi nghe lòng cũng hết sức ưu tư. Tin đồn rằng hình như cố sở nơi đây đã có tuổi và đang được liệt kê và sổ bốn nhân vật kinh cầu kẻo hàng đầu toàn giáo phận. Nhột lắm, nhưng bụng ráng bảo dạ rồi sẽ tuỳ cơ ứng biến, hy vọng sẽ học đòi nẻo đi của các vị anh hùng quân tử, sống tựa loài lươn, khi gấp thì ngắn khi vươn thì dài. Thiên hạ sống được, sao mình chưa chi đã lo chết!

Lên xe, từ giã toà Giám Mục với tờ ‘bài sai’ nóng hổi, tôi cố tự phấn chấn và ráng bình tĩnh ngó ra nhìn cảnh vật hai bên đường. Quốc lộ 20 ngoằn ngoèo trong sương sớm bỗng dưng cho tôi cái hình ảnh đường ra trận tiền, với mây xám giăng mắc, với khói súng mịt mờ. Quơ tay sang bên cạnh như kiểm điểm lại gói hành trang lỉnh kỉnh những tài liệu sinh hoạt hội đoàn, trò chơi thiếu nhi, nhạc hát ca đoàn, tôi bâng khuâng nghĩ tới những buổi ra quân lần đầu, chắc sẽ bỡ ngỡ vụng về lắm, rồi mơ hồ hy vọng ‘người ta’ sẽ thay lòng mà dễ tính, không đòi hỏi chê bai.

Khi những đồi trà nối tiếp hiện ra hai bên đường thì trời đã xế trưa. Lúc xe vừa ra khỏi cầu Đại Nga phân ranh giới hai quận Di Linh và Bảo Lộc thì bác tài xế đã lên tiếng báo hiệu nhà thờ Tân Hoá coi như gần tới. Máy xe vẫn êm, nhưng tiếng trống ngực tôi như đã đập thình thình. Rồi gác chuông thánh đường sừng sững phía xa. ‘Đơn vị’ mới là đây! Con đường đất đỏ khá rộng dẫn vào khu nhà xứ như trải dài vô tận. Tôi rảo bước, thấy tâm trí lâng lâng, nửa mừng nửa sợ, quên cả hai chiếc va li nặng chĩu dưới đôi tay. Tiếng ‘chào thày’ nghe lao xao đâu đó. Bọn trẻ đã kháo láo nhau về bóng chiếc áo chùng thâm mới. Quanh quất đâu đây hình ảnh một xóm giáo hiền hoà, dân tình chất phác, tháng năm vui với nghề trồng trà mộc mạc giản dị.

Và rồi, chuyện phải tới đã tới. Bài sai được đưa trình. Mọi thủ tục tiếp nhận thông qua mau chóng. Thày xứ mới được yêu cầu chuẩn bị ra mắt bà con trong thánh lễ thứ bảy chiều nay. Có nụ cười nơi cha xứ. Có mừng đón chúc tụng nơi giáo dân. Nhưng chẳng dấu đâu cho hết cái e ấp ngượng ngùng của ‘cô dâu’ mới.

Như đã đoán trước, ông thày trẻ được trao cho công tác phụ trách ca đoàn, chăm sóc đám thiếu niên và chỉ huy hội thiếu nhi Thánh Thể. Tất cả các sinh hoạt đại thể thường diễn ra vào cuối tuần, còn hàng ngày thì làm nghề gõ đầu trẻ qua chức vụ giáo viên lớp nhất (xứ đạo chỉ có trường tiểu học). Kể ra cũng đủ việc để làm, để được bận rộn và có thể vui trong cái vùng đồi trà bát ngát xa xôi đây. Giúp và thử thì dĩ nhiên rồi, nhưng còn cái mục học thì chẳng biết sẽ học được những chi! Có lẽ phải là học chấp nhận mọi thứ hay dở của môi trường sống. Phải là học kiên nhẫn với đám trẻ luôn ưa đùa giỡn phá phách. Và đặc biệt ở trường hợp cụ thể đây, học đối thoại với cấp chỉ huy nhiều khi thật đòi hỏi và khác biệt lập trường.

Họ đạo Tân Hoá nhỏ bé, lại được kể là nghèo so với các xứ lân cận. Nhà xứ đơn giản lắm. Nhà thờ cũng mộc mạc cổ kính với mái lợp tôn đã ngả màu. Bù lại thì giáo dân rất cởi mở và sùng đạo, sớm tối đều quay quần trong thánh đường, bên bóng dáng cha xứ, như một đại gia đình, với niềm tin siêu nhiên làm cốt tủy nền móng. Dĩ nhiên cha được trọng vọng tuyệt đối. Cha nói là Chúa nói. Dân đi xa về gần đều vào cha để thăm hỏi, bánh quà. Gia đình có chuyện buồn vui hoặc cần tham khảo ý kiến, nhất nhất là phải có cha. Cha là linh hồn của mọi sinh hoạt, cả đạo lẫn đời. Có thể là vì cái địa thế hẻo lánh của họ đạo nên ai nấy mong quấn chặt lấy chủ chiên. Mà cũng có thể vì hoàn cảnh lịch sử: cha xứ đã đưa con chiên từ Bắc vào Nam và chỉ huy việc xây dựng lại xóm làng thôn ấp, nên ngài đã tự động được coi là nhà lãnh đạo tối cao.

Giáo phận Đà Lạt bây giờ có một số các họ đạo Bắc di cư như thế. Đâu đâu cũng rợp một khuôn khổ, lễ nghi luôn linh đình và sinh hoạt thường sầm uất. Riêng vùng Bảo Lộc này thì cơ hồ chín mươi phần trăm giáo hữu gốc miền Bắc. Đó đây đều nghe nói tới những tên ‘mới’ Tân Bùi (Bùi Chu), Tân Thanh (Thanh Hoá), Tân Hà (Hà Nội), Tân Phát (Phát Diệm) v.v… Tân Hoá thì mượn tiếng sau của từ ngữ Thanh Hoá, mong còn nhắc nhở được gốc gác quê cũ cho lớp con cháu mai này.

Tôi đã hoà mình với đoàn người ngoan đạo thật thà nơi đây bằng tất cả niềm lạc quan cởi mở. Một năm tạm gác bút nghiên, xếp lại bài vở để thử lòng mình và học hỏi ngành hướng đạo tinh thần cũng như việc tổ chức giáo xứ. Cực nhọc thì nhiều. Bực mình cũng lắm. Tự ái bị va chạm liên miên. Nhưng bởi nghĩ rằng tất cả sẽ chóng qua, tôi cố tạo cho mọi chuyện được trơn tru êm thắm. Cha xứ có khó một chút, nhưng biết đâu lại giúp mình biết thận trọng hơn trong công việc và tránh được những dịp quá dễ dãi buông thả. Ngay cả cái mục giao tiếp với nữ giới vì thế cũng đỡ được những bất cẩn sai lầm.

Để khỏi phải lo sợ cái màn đêm âm u thanh vắng, giữa cảnh núi rừng cô quạnh, cũng như vào lúc chiến cuộc sôi bỏng với bóng tôi luôn phảng phất đó đây mùi tử khí rợn rùng, tôi đã mời mấy tên thiếu niên trong đoàn giúp lễ mỗi tối vào ngủ trong phòng khách nhà xứ để thày trò cùng canh cửa giữ nhà. Tiếng cười đùa như át hẳn đi những cảm giác lo âu. Rồi đôi lần cha xứ vắng nhà hay ngại chuyện du kích địch mưu toan bắt cóc nên khăn áo di tản khỏi nhà một đêm, thày trò chúng tôi được dịp tung hoành ca hát. Khu nhà xứ cơ hồ vui như ngày hội. Lắm buổi trời trăng thanh gió mát, đứng trên lan can nhìn ra xa, với từng đồi trà chạy dài như vô tận, tôi bỗng thấy thương giải đất quê hương mình quá, mảnh đất từ nguyên thuỷ vẫn dịu hiền thơm ngát như hương trà ban đêm.

Mười tháng ‘nghĩa vụ’ đã qua, tôi chuẩn bị về toà Giám Mục trình diện trước khi đi nghỉ nốt hai tháng mùa hè. Mấy tên bạn có vẻ mừng cho tôi vì đã can qua một cửa ải nổi tiếng. Có đấng hỏi tôi cái bí quyết đương đầu với ngài kinh cầu kẻo, tôi cứ ỡm ờ trả lời rằng cứ theo chính sách chỉ đâu đánh đấy cũng như thỉnh thoảng phải biết chơi cái trò ‘sáng tai họ, điếc tai cầy’!

Được thanh thản nghỉ ngơi, tôi như cởi được cái gánh nặng vô hình trên vai. Tuy nhiên, dẫu đêm có ngủ ngon giấc hơn, nhưng cũng không tránh khỏi đôi lần giật mình khiếp sợ. Vẫn lẩn khuất đâu đây hình ảnh đen tối về một tương lai xa xôi. Biết đâu nẻo đường tận hiến rồi đây sẽ đưa mình về những phương trời hẻo lánh hiểm nghèo hơn cả Tân Hoá. Và nữa, biết đâu, với tuổi đời chồng chất, mình cũng lại đi vào cái khuôn khổ, cái cung cách cổ hủ khó thương của bậc đàn anh như vị Linh Mục già chốn kia. Lúc đó tư tưởng tôi xem chừng hơi lẩm cẩm, nhưng quả thật đã có những giây phút lòng tôi đầy tràn cảm giác chán chường để khiến xui tôi toan tính chuyện bỏ cuộc.

Cũng may, những ngày xuôi Nam thăm cha đỡ đầu cho tôi có dịp ghé nhiều tỉnh miền Hậu Giang, được lắm cơ hội chứng kiến những công cuộc tông đồ truyền giáo đầy ý nghĩa, lại thêm tâm trí được nguôi ngoai thoải mái qua những buổi họp mặt thân thiện với nhiều bạn bè mới cũ, nên ý hướng dấn thân phục vụ như dần dà được khơi mạnh lại trong hồn, để tôi vẫn mạnh dạn và hăm hở trở về trường tiếp tục với bốn năm Thần học.

Ngày trở lại, anh em tay bắt mặt mừng, nhưng cũng xót xa khi thấy mất đi năm mạng trong danh sách. Da mặt người nào cũng như xạm nắng chiến trường, nhưng thấy ai cũng có vẻ nói năng chững chạc hơn. Một năm làm thày thiên hạ có khác! Nay trở về đơn vị, chắc rồi chả mấy lại ngựa quen đường cũ mà ‘nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò’, dẫu cho là học trò ban Thần học, những ngày chuẩn bị gần để lên chức ‘cha’.

Giờ đây, lớp chúng tôi được xếp vào phe đàn anh. Lớp học cũng như phòng ngủ được di chuyển qua cánh phải của toà nhà học viện. Lại bài thi, lại khảo hạch, nhưng các môn học xem chừng gần Chúa gần Mẹ hơn, liên quan đến phần linh thiêng đạo giáo hơn. Tâm tư ai nấy đều hướng về những dịp ‘chịu chức’ trước mặt. Về lại trường sau năm thử thách vẫn thường được coi như khá chắc ăn. Đường trần và cõi tu đã được cân nhắc đắn đo. Nẻo đi đang gần tới đoạn kết cho những ngày chuẩn bị cẩn thận kỹ càng. Tiếng gọi thần thiêng như đã tìm được câu đáp.

Công Đồng Vatican II đang trên đà canh tân giáo hội. kể cả mặt phụng vụ lễ nghi, nhưng chưa kịp sửa đổi thủ tục lãnh chức của hàng giáo sĩ, thế là chúng tôi vẫn được lệnh từ từ leo bảy bậc của hệ thống…quân giai truyền thống, kể cả cái nghi thức cắt tóc để chính thức thuộc hàng đạo đức.

Lúc này trường chúng tôi vẫn quen lần lượt mời các vị Giám Mục đến học viện phong chức cho các sinh viên. Ban thần học năm I thì được ‘hớt tóc’ vào khoảng cuối niên khoá. Năm II lãnh liền bốn chức nhỏ vào dịp Giáng Sinh và năm III thì đầu niên khoá chịu chức năm (phụ phó tế), rồi trước khi đi nghỉ hè sẽ lãnh chức sáu (phó tế) để về quê còn có dịp giúp việc bàn thờ. Việc lãnh mão áo và ấn tín Linh Mục thì thường được tổ chức ở quê quán địa phương đương sự, với Giám Mục sở tại chủ phong, dĩ nhiên là vào năm chót.

Chúng tôi được giảng giải cắt nghĩa thật kỹ lưỡng về ý nghĩa và tầm quan trọng của các chức thánh. Đó đây cùng rỉ tai ‘Người đời sẽ kính trọng anh, không phải vì tư cách cá nhân, nhưng là do bảy chức thánh trên đầu’. Thế là tướng nào tướng nấy bắt đầu đăm chiêu tư lự. Có chàng tự nhiên thấy kém ăn biếng ngủ, nghĩ ngợi gần xa.

Thường thì trước mỗi dịp chịu chức đều có dăm ba ngày tĩnh tâm cấm phòng chuẩn bị. Tha hồ có thời giờ mà tâm sự, mà hàn huyên với Chúa: Thưa ngài, con có xứng đáng không? Bẩm Chúa, con sẽ phải làm gì, vân vân và vân vân. Cứ thế, anh em chúng tôi trải qua những đợt tìm hiểu, nguyện cầu và thúc mình can đảm bước lên. Chả ai dám nghĩ mình xứng đáng. Cụ nào cũng thấm lời Kinh thánh để ví mình như stercora, tựa loài phân bón, tựa thứ chi lâm lan cốc mạt hèn. Nhưng bởi được thương đoái, được tha thứ, được cất nhắc lên hàng khanh tướng quần thần để cùng với vị Tôn Sư tối cao ra tài lương đống lo việc nước Trời. Đã mấy ai hiểu được ý, thấu được căn!

Theo nhịp bước với anh em, cơ hồ tôi cũng từng sụt sùi cảm động ở những buổi tiến lên nhận chức. Dịp cắt tóc chưa trọng đại, vì chỉ là những nghi thức mở màn tượng trưng. Bốn chức nhỏ (giữ cửa đền thờ, đọc sách, trừ tà và giúp lễ) cũng chỉ là tiêu biểu tác vụ cho kẻ lo việc nhà Chúa. Đợi cho tới dịp chuẩn bị lãnh chức năm, thường được coi là chức thánh đầu tiên, mà cũng được kể là bước tiến dứt khoát cho cuộc sống độc thân trót đời, tôi đã không tránh khỏi những đêm ngủ trằn trọc và những giây phút âu lo khác thường. Với lần quyết định này, tất cả sẽ kể như xong. Đại mộc lưu giang, bất đắc hồi cố. Đừng để chuyện dứt khoát hôm nay trở thành một quyết định trẻ con. Thế là với bất cứ giá nào cũng phải làm cho ra chín chắn trưởng thành.

Cầu khấn mấy thì Chúa Mẹ cũng chẳng bao giờ hiện ra cho biết phải chọn có hay không. Mình biết lấy mình. Mình tự lượng định lấy cuộc sống riêng mình. Ơn thiêng chỉ để tiếp sức hỗ trợ. Bởi đây là một lời đáp, một lựa chọn tự do. Cái giá phải trả cho tự do hôm nay vô tình quá đắt, quá lớn lao. Chẳng lẽ đi tìm cầu cơ bói toán! Mà nhà tướng số nào dám nắm vững tương lai. Hoạ chăng chỉ dựa theo dấu vết quá khứ để nói mò chuyện mai hậu. Lại cũng khổ lắm, riêng với tôi, dẫu luôn chỉ là để giỡn đùa, lần nào có người toan bắt mạch cầm tay để trổ tài tử vi, họ cũng phát ngôn rằng con đường tình cảm rất ư sung túc nặng nề. Đề cập đến chuyện tu, nhất định sẽ thấy ngay vài nụ cười mỉm huyền bí.

Nhưng rồi đường dài nhất quyết thẳng tiến. Xao xuyến xúc động rồi cũng trôi qua. Ngày gieo bước chân định mệnh đã tới. Trần gian từ nay được trả lại cho gian trần. Lời hát ‘Chúa là gia nghiệp’ vang vang in sâu vào tâm khảm. Nhiều tướng khóc rưng rức lúc nằm đọc bài kinh cầu các thánh, tưởng chừng cửa thiên cung lấp ló đâu đây, với bóng dáng thần thánh chào đón. Đằng sau, gia quyến thân nhân cũng chẳng kém xúc động bồi hồi: Một của lễ đã được dâng hiến, một tặng vật đã được trao ban. Và rồi đây sẽ còn tiếp tục dõi theo cũng khích lệ trên vạn bước tông đồ.

Thế là qua tiếng Xin Vâng, chúng tôi đã tự ràng buộc vào sự xếp đặt của bề trên thay mặt Thiên Chúa. Sẽ không có yêu sách đòi hỏi. Sẽ chẳng còn giành giật cạnh tranh, nhưng chỉ là tuân phục, vâng nghe.

Rồi cuộc sống sẽ phải lồng khung trong giản dị khó nghèo. Công danh phú quý đã nhường hết cho người đời. Đường theo Chúa phải tách biệt với những sang trọng xa hoa. Chẳng dễ gì, nhưng năm tháng phải hằng ghi tâm khắc cốt để học cho được bài học ‘phú quý tợ môn tiền tuyết, công danh như thảo thượng sương’. Phải rồi, giàu sang sẽ chỉ như nắm tuyết rơi trước cửa và công danh chỉ giống hạt sương đọng trên ngọn cỏ mà thôi. Hình ảnh một Hứa Do, một Sào Phủ nào đó lảng vảng nơi tâm trí.

Khó hơn nữa, phải biết chế ngự những đòi hỏi tự nhiên phát sinh nơi chính thân xác tâm can. Từ nguyên thuỷ của trời đất, chuyện âm dương nam nữ vẫn như hằng quấn quýt nhau và là nhu cầu phổ quát cho người đời mọi thời đại. Giờ đây chẳng ai bắt ép, không ai cấm đoán, nhưng khi đã hiểu thấu lời mời gọi siêu nhiên từ đáy hồn, mình sẽ thấy một ý nghĩa và giá trị cao cả ẩn nấp đằng sau.

Đi tu không phải bởi khinh chê cuộc sống gia đình, như ai cũng biết, hay vì đam mê một cái gì bất thường, tỉ như kẻ có người yêu chột mắt mà rồi thấy ai cũng có mắt dư. Trước mặt không nhìn ra, ngoài miệng không phát biểu được, nhưng từ thâm tâm chúng tôi vẫn thấy có một cái gì vời vợi thiết tha kéo giục để tiến lên cho lý tưởng. Vẫn biết, từ bỏ bao giờ cũng thật xót xa, mà trần đời cùng tình yêu nam nữ lúc nào cũng đầy vẻ hấp dẫn lôi cuốn. Nhưng rồi, lời gọi trên cao cuối cùng đã thắng.

Tôi không thích những trang sách hay những bài kêu gọi đi tu bằng cách đưa ra mặt trái của đời sống con người, nhất là ‘doạ’ về những khó khăn trong bậc sống gia đình, và cụ thể hơn nữa, về những nết xấu của nữ giới. Bởi lẽ, cũng nhờ có dịp tìm tòi suy niệm, tôi đã sớm hiểu rằng cả nam cả nữ đều là công trình Chúa tạo dựng với mục đích hỗ trợ bổ túc cho nhau, phái nào cũng có kẻ xấu người tốt. Bây giờ đi tu, mình tự nguyện hiến thân quên chuyện thê nhi để nhờ chính Chúa bổ túc hộ trì. Trong cái tiến trình ‘lội ngược dòng’ ấy, cốt yếu là phải biết bám chặt Chúa để thay cho và vượt lên khỏi những nhu cầu tự nhiên.

Để có sức lội ngược giòng, tôi phải tự luyện kiên trì và bền vững trong ý hướng để có thể tạo được bản lãnh cá nhân và không hề mang mặc cảm. Có được cái căn bản tối thiểu này chúng tôi mới dám bình thản lên đường. Cho cõi lòng được nhẹ như gió. Cho con tim được êm tựa áng mây. Cho lối đi được nở hoa giữa sỏi đá khô cằn. Chỉ có niềm vui siêu nhiên mới tưới mát được hồn mình sau những giờ khắc nóng bỏng bởi cuộc chiến nội tâm.

Mong sao tôi giữ được nét bình thản và yên hàn này mãi cho cả cuộc đời, như một báu vật, một bửu bối cho quãng đường hành hoá. Người đời có thể vội vã nhìn ra nơi chúng tôi một cuộc sống có vẻ an nhàn dễ dãi bởi không phải cùng theo những bạn bè khác ngang lứa tuổi để xông pha trận tiền, giữa lúc đất nước điêu linh khói lửa, nhưng mấy ai hiểu được trận chiến chúng tôi khởi sự giao tranh sẽ là thập phần ác liệt và gay cấn, mà rồi chỉ được kết thúc khi mình nhắm mắt xuôi tay.

Cuộc chiến ấy, không phải chỉ là ở góc cạnh của một hạn chế về của cải vật chất hay hy sinh nơi tình cảm thú vui, nhưng là một thôi thúc không ngừng để học làm một thứ superman: bên ngoài mềm nhũn như bún nhưng bên trong phải là sắt thép kiên cường. Phải học làm chủ những ước muốn và mọi tâm tư thầm kín nhất. Phải biết làm người với đầy đủ ý nghĩa nguyên thuỷ mà tìm tránh hết dấu vết tham sân để có thể hướng dẫn người khác. Chưa đủ nếu chỉ biết cách làm cho kẻ khác hiểu mình và trọng mình, như Tử Lộ từng khoe với thày là Khổng Tử. Cũng chưa đủ khi chỉ tìm hiểu và tôn trọng tha nhân như môn đệ Tử Cống. Nhưng quan trọng hơn cả và cơ bản hơn cả phải là Nhan Hồi luôn tìm cách tự hiểu và tự trọng mình. Phải biết và phải trọng mình trước, để mỗi phút giây tìm đường tu tỉnh, cải quá thiên thiện, ngõ hầu tạo lợi ích mà phục vụ người khác, qua việc tìm biết và trọng kính họ.

Và rồi, cái ngày trọng đại nhất, chuẩn bị đã dài, chờ đợi đã lâu, cũng đã tới. Bậc thang cuối cùng của chặng đường bước lên đã ở trước mặt. Đa số chúng tôi về quê thụ phong Linh Mục, theo ước muốn của hàng giáo phẩm, như một phần thưởng cho gia quyến họ hàng, mà cũng như một khích lệ cho bà con lối xóm để ai nấy được phấn khởi mà cổ võ và nâng đỡ những mầm non ‘ơn gọi’ khác.

Với người đời thì sau khi đỗ đạt sẽ có cái mục y cẩm quy hương, mang áo gấm về khoe làng. Nhưng chúng tôi thì về quê để được lãnh chức và được trao áo mão. Tôi còn nhớ rõ, giữa khung cảnh trang nghiêm của ngôi thánh đường mới được khánh thành, giữa tâm trạng náo nức của toàn thể xứ đạo Lạc Lâm, tôi đã không khỏi xúc động, dẫu cho bên ngoài đã không để rơi hạt nước mắt nào. Khi đưa đôi bàn tay ra để được vị Giám Mục chủ phong xức dầu thánh, tôi bàng hoàng lại một lần thấy mình tựa như mơ. Có lẽ mẹ tôi cùng họ hàng thân quyến cũng bồi hồi không ít: có ai ngờ tới một ngày như hôm nay, ngày mà con chiên lạc bày của họ đạo Yên Tập tít mù nơi phương Bắc kia bất ngờ lại được gió đưa về miền núi thiêng, không ai một lần dám mong chờ tưởng ước.

Thế là tiệc tùng, mừng chúc. Cả thánh đường lẫn ngôi nhà nhỏ bé của mẹ tôi đã rộn rã tiếng cười vui không ngớt, kéo dài cả qua ngày lễ ‘mở tay’ long trọng vào sáng hôm sau. Lúc nào cũng như nghe vang lời thánh ca hào hùng: Từ ngàn xưa cha đã yêu con, cha gọi con giữa muôn người. Vui lắm, hãnh diện lắm, nhưng cũng kể từ đó là trách nhiệm đã cơ hồ nặng trĩu trên đôi vai. Người đời bắt đầu gọi mình là cha, nhưng cũng có nghĩa là người ta có quyền đòi hỏi, có quyền hạch sách, cũng như có quyền đợi mong ở mình những cái gì khó khăn khác thường nhất. Mình đã thực sự được trông chờ trở thành mọi sự cho mọi người. Được nâng lên cao để được thông chia san sẻ. Được xưng tụng trọng kính là để ra tay níu kéo, phục vụ.

Trước khi về lại trường học nốt mấy tháng chót của chương trình Thần học, chúng tôi còn được mươi ngày thong thả để bay nhảy đó đây làm lễ ‘đầu mùa’, ra cái điều mình là tân Linh Mục. Ơn thiêng vẫn dào dạt với đôi tay còn thơm ngát dầu thánh, đi đâu cũng được đón rước tưng bừng. Tôi cũng không dám ra ngoài cái thông lệ ấy, để rồi cùng cha đỡ đầu đi dăm ba nơi khác gọi là ra mắt bà con quyến thuôc. Ai cũng thầm nghĩ: đời người chỉ một lần, khác nào những cô dâu chú rễ sau lễ thành hôn tung tăng với tuần trăng mật, tân Linh Mục cũng nên vui cho trọn và vững tin rằng niềm vui ấy sẽ bền vững, dài lâu.

Thế là từ đây, mỗi ngày tôi đều được trao gửi một thần lực để thực hiện một phép lạ cao cả, là biến bánh và rượu nên Mình và Máu Thánh Con Thiên Chúa. Chẳng nhìn thấy mà cũng chẳng cảm được, nhưng bầu khí linh thiêng bao trùm nhắc nhở bàn tay huyền nhiệm luôn lẩn khuất bên mình.

Một đoạn đường mới đã bắt đầu. Vẫn được cười đùa, vẫn có thể vui giỡn, nhưng sứ vụ sẽ mãi là nghiêm chỉnh trọng đại. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân sẽ phải được gắn liền với cuộc sống siêu nhiên nơi Thần Linh của vị Thày Chí Thánh.

Từ nay Thày không gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng sẽ là bạn hữu thâm giao.

Hãy liên kết với Thày trên mọi nẻo đường, để rồi đem lại hoa trái và ơn cứu độ cho người đời.



---------------------------------------
Tác giả Đường Phượng Bay


Được sửa chữa bởi Levitan ngày 29.06.2009, sửa lần 1
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Levitan
Chuyên viên


 

Ngày tham gia: 11/08/2007
Bài gửi: 823
Số lần cám ơn: 35
Được cám ơn 440 lần trong 288 bài viết

gửi email Yahoo Messenger
Bài gửigửi: 29.06.2009    Tiêu đề: 9. Lính Má»›i Ra Lò Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

9. LÍNH MỚI RA LÒ


Năm tháng trời trôi qua vùn vụt. Mùa hè đến sừng sững sau lưng lúc nào không biết. Đà Lạt không có ve kêu, không có phượng vĩ chói chan khắp nẻo, nhưng hè đến bằng những đợt thi khảo trùng điệp và bằng những âm thầm chuẩn bị của bà con qua nhiều hình thức. Mấy tướng nôn nóng về quê thường an ủi nhau ‘thôi ráng mà gạo, chả mấy nữa mình đã bay nhảy đó đây, những chín mươi ngày không có bài vở cơ mà!’

Thế nhưng hè năm nay lần đầu tiên đến với chúng tôi với một ý nghĩa khác. Cũng chấm dứt thi cử học hành. Cũng hăm hở ra đi thay đổi bầu khí. Nhưng bây giờ sẽ là vĩnh viễn xa rời mái trường. Hết rồi những buổi đôn đáo đi tìm dâu tìm mận hay lùng kiếm những cành đào sắp nở góp vào hành trang lên đường về hè hay nghỉ tết. Cũng thoáng thấy đầu óc nhẹ đi khi biết từ nay không còn phải sống kiếp học trò ‘bắt buộc’, nhưng bước chân lên đường khởi sự một cuộc hành trình vô tận đầy gai góc, để rồi sẽ mãi mãi phải làm…người lớn, với nhiệm vụ nghiêm trọng trên vai, chúng tôi mới chợt thấy thương, thấy quý những tháng năm qua.

Rời chủng viện, nghĩ lại sau mười lăm, mười sáu năm trời, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, lòng tôi không khỏi xốn xang thổn thức. Chẳng mơ hồ, nhưng rồi tất cả vẫn hiện lên như mơ trong tâm tư chập chùng kỷ niệm. Không dám tin ở mình, nhưng mọi chuyện đã xảy ra thật để tôi phải rõ ràng ý thức mình đang ở trong một tư thế sẵn sàng khởi sự một sứ mạng trọng đại và tất cả đang chờ đón trước mắt.

Các bậc giáo sư cha anh ra tận cửa như để đưa tiễn chúng tôi vào con đường dấn thân đã được dày công chuẩn bị. Đầy cảm động và tự tin, nhưng làm sao khỏi lo sợ, bàng hoàng. Tôi đã bỏ nhà đi tu bao năm tháng nay, nhưng nào dám nghĩ mình đã tu được những gì! Có chẳng chỉ là đã được cơ hội học hỏi, huấn luyện để xông pha vào hướng đời phục vụ. Phương tiện được trao ban, được xử dụng, là chuyện tu thân, chuyện tích đức. Có cố gắng và ráng công, nhưng cơ hồ chưa thấy mình thu tích được điều chi. Bởi đó, vẫn phải hoang mang ở mỗi phút, ở từng giây.

Cả tháng trời trước ngày mãn khoá, tôi thỉnh thoảng băn khoăn tự hỏi mình sẽ được chỉ định ra làm việc ở đâu. Có lẽ cái bài sai đầu tiên đã từng được nhiều người, giống như tôi, quan niệm là can hệ vô cùng cho tương lai. Môt khởi đầu trơn tru tốt đẹp nhất định phải là báo hiệu của cả một đời phục vụ thành công. Và rồi, tôi tưởng tượng ra những hoàn cảnh, những điều kiện ngon lành thoải mái nhất như đang lấp ló đợi chờ.

Đã từ lâu tôi vốn ấp ủ cái ngành gõ đầu trẻ. Có lẽ dưới bậc tiểu học, tôi đã hơn một lần làm luận văn xuất sắc với cái đề tài dự tính cho tương lai làm nghề dạy học. Hình ảnh một giáo sư tiểu chủng viện hay một trường trung học họ đạo nào đó đã từng khiến tôi phấn khởi không ít, nếu chưa dám bảo là say mê. Gần xa, tôi mường tượng tới cái thú được chia sẻ với lũ học trò những điều chính mình đã học hỏi, thâu thập. Tôi nghĩ chính cái chuyện chia sẻ này sẽ lại thôi thúc mình học hỏi thêm trong cả đời. Mà nữa, tôi hy vọng mình vẫn có dịp giúp chương trình mục vụ tôn giáo vào cuối tuần tại một họ đạo nào đó.

Dẫu sao, lúc này tôi chỉ dám mơ hồ nuôi các giấc mộng đó sâu kín mãi trong lòng, phần vì nghĩ mình nên cứ thử công việc bình thường của giáo xứ cho quen ở những năm đầu, như tôi đã xin được học hỏi dịp đi Tân Hoá trước đây, phần nữa là bởi tôi không muốn sớm lên tiếng đòi hỏi điều chi nơi Đức Giám Mục. Dĩ nhiên là chẳng bao giờ dám xin được cử về một nơi dễ dàng thoải mái, nhưng ngay cả cái lựa chọn về chủng viện dạy học, tôi cũng nhủ mình nên cứ thong thả rồi hãy tỏ bày.

Có lần tình cờ đọc được chuyện kể về ông Tôn Khúc Ngao Đời Chiến Quốc bên Tàu, tôi như thấm thía được một bài học sâu xa, và rồi nguyện sẽ khắc ghi lâu dài, để mà thấy mình như được đồng hoá với người con trai của ông khi biết lắng nghe và tuân giữ lời trối trăn của thân phụ: “Con không có tài kinh bang tế thế, đừng ước mơ phẩm tước mà làm dơ áo mão triều đình. Còn nếu nhờ may mà con được phong ấp thì hãy nhớ lựa đất Tẩm Kỳ mà xin nhận, vì địa thế Tẩm Kỳ xấu, không ai thèm giành giật, con sẽ được thong dong thoải mái mà làm việc”

Tuy nhiên, ngày mãn trường, lúc ra toà Giám Mục nhận lệnh của bề trên, tôi cũng vẫn thấy hồi hộp khác thường. Sau gần nửa giờ khuyên nhủ huấn dụ, Đức Cha mới lên tiếng cho biết tôi sẽ về làm phụ tá nhà thờ Chính toà ngay tại thị xã Đà Lạt đây, kèm theo một ‘giao kèo’ là thỉnh thoảng Giám Mục sẽ trưng dụng để giúp ngài đôi việc bất thường. Chẳng đến nỗi quá sững sờ như từ trên trời giáng xuống, nhưng tôi cũng thấy bàng hoàng cơ hồ ù cả hai tai. Nhất định nhiều bạn bè sẽ bảo là tôi tốt số, trong khi chính mình chỉ mường tượng sẽ ra đi về một miền khỉ ho cò gáy nào đó: nếu không ở vùng Quảng Đức, Phước Long, thì cũng dưới miệt chân đèo Bảo Lộc hẻo lánh. Thế là một nửa vui theo bản tính tự nhiên phản ứng, một nửa lại vẩn vơ lo sợ mình sẽ làm ‘dơ mão áo triều đình’. Rồi nữa, ở gần kề ‘mặt trời’, thân cận giới tai mắt, biết đâu sẽ chẳng có những biến chuyển đầy thách đố trong tương lai!

Cầm tờ ‘sự vụ lệnh’ ra trình diện cha chính xứ, tôi miên man nghĩ tới một trách nhiệm lớn với nhiều đòi hỏi đang đón chờ. Xét mình mãi chẳng tìm ra được tài cán chi đặc biệt, tôi bất ngờ như muốn trở lại gặp bề trên xin thoái thác. Nhưng một phút tự phấn chấn đã giúp tôi mạnh dạn hơn. Cùng lúc, tôi cũng nhớ lại lời khuyên của cha giáo già người Tàu trước đây về cách xử thế trên đời: “Có tài hay không có tài cũng chẳng phải là cách giải quyết, nhưng chỉ có cái đức, cái bản lãnh cương trực của mình mới là chìa khoá của thành công”.

Câu chuyện Trang Tử dạy học trò ngày xưa cũng lại khơi dậy trong tâm trí: “Đôi khi cây không bị đốn vì gỗ xấu. Mà đôi khi bởi chim không biết gáy nên bị làm thịt. Chẳng biết đâu mà lường. Nên phải biết cư xử trong cái khoảng giữa tài và bất tài. Nghĩa là phải học đòi gương của các bậc đạo đức cao siêu, không quản khen chê, lúc như rồng, khi lại như rắn, luôn là người nhưng lại khác người. Bởi chung với người thì có lúc va chạm, tự làm việc thì có kẻ dị nghị, ngay thẳng thì bị đè nén, nể vì sẽ bị chê bai, giỏi giang sẽ bị ganh ghét, còn loàng xoàng sẽ không khỏi bị khinh thường. Thành ra, với cái nhân tình thế thái ấy, chỉ có cái ĐỨC mới tránh được phiền luỵ mà thôi”.

Và dần dà lòng tôi cũng dịu xuống, nhất là sau khi được hai tuần lễ nghỉ ân huệ trước khi khởi sự đoạn đường trường. Mười mấy ngày tuy thật là phù du, nhưng quý giá vô cùng vì giúp tâm tư được lắng xuống, để tìm thấy tia hy vọng trong viêc phó thác nơi sức mạnh siêu nhiên: mình sẽ chỉ là một dụng cụ, một phương tiện của bàn tay Thiên Chúa. Mọi hoạt động sẽ mãi mãi là ở cương vị của một sứ giả, một phát ngôn nhân cho sứ điệp Nước Trời. Chỉ cần hiện diện như chứng nhân, luôn can đảm, mãi trung thành. Và thế là đủ. Nào phải lo lắng ưu tư! Đâu ai bắt mình phải là tuyệt luân, xuất chúng!

Tôi cố giữ mãi cái tâm trạng lạc quan bình thản đó để bắt đầu nhiệm vụ. Mọi lệnh trên đều cố nghiêm chỉnh thi hành. Công tác đã được phân chia luôn ráng chu toàn đầy đủ. Làm Linh Mục là lãnh đạo giáo dân, nhưng bây giờ còn cần học hỏi và trau giồi kinh nghiệm. Khôn đâu tới trẻ, khoẻ đâu tới già! Đôi lúc muốn hăm hở bước vào đời với tất cả say sưa hăng nồng, cơ hồ muốn đổi thay cải tiến toàn bộ, nhưng khi kịp ý thức sẽ thấy mình phải tập nhìn, tập nghe trước khi ra tay, mở miệng.

Thực tế là, ngoài những trách nhiệm tổng quát như làm lễ và cử hành các phép bí tích, tôi còn được trao cho cái sứ mạng đặc trách về các người đau ốm cũng như các đám an táng trong toàn giáo xứ. Thế là vác xe đi làm bạn với bệnh nhân khắp ngả cũng như thường xuyên chủ sự các lễ nghi tống táng lớn nhỏ. Lắm khi quá mệt nhọc hay nhàm chán, tôi đã buồn rầu nghĩ tới câu ‘đàn em ăn thèm vác nặng’. Nhưng rồi lại nhủ mình phải biết kiên nhẫn học làm…lính trước khi lên quan.

Thỉnh thoảng cái ‘tôi’ cứ muốn vươn lên ngất ngưỡng trong hồn. Những ý nghĩ tự cao tự đại như mời gọi khiêu khích, lôi kéo mình vênh vang vì đang làm việc ở giáo xứ chính toà đầy hãnh diện. Là đây có cơ hội ra oai với thiên ha. Là đây có dịp làm quen với nhiều nhân vật quan trọng đạo đời. Và cũng là đây sẽ được lắm kẻ cầu cạnh nể vì. Đặc biệt hơn nữa, ngôi trường trung tiểu học đồ sộ nằm sát cạnh nhà thờ cũng ngày đêm là một cám dỗ để tôi tìm cách trổ mã khoe tài với đám học sinh mới lớn. Nhiều phen tôi đã hầu như quên mất con người thật của mình, khi thấy được khen lao chúc tụng qua một vài thành công ở mấy lớp dạy bán phần, nhất là lúc được bọn trẻ đưa lên mây xanh sau những dịp điều khiển ca đoàn hợp xướng của toàn trường.

May sao, những dịp tĩnh tâm cấm phòng đã phần nào giúp tôi nhận ra cái hiểm nguy của những bóng dáng thành công, nhất là khi mình mới bước chân vào đời. Rồi với những phút suy tư cá nhân, tôi đã kịp hiểu rằng đây là lúc phải lưu tâm, kẻo rồi mai, tháng ngày sẽ chỉ là lo kiếm tìm chính bản thân mình cũng như chạy theo những tình cảm phù phiếm. Tôi đã sớm nhìn ra cái bất công của một ca sĩ chỉ mượn lời của người soạn nhạc để nghêu ngao, mà rồi tưởng mình là chính kẻ sáng tác và quy hết mọi vinh dự và thành công vào mình.

Thỉnh thoảng cũng nhờ ở những chuyện thất bại nọ kia mà tôi không dám quên cái bổn phận phải học cho biết chính mình trước hết. Cái gương ‘tam tỉnh ngộ thân’ của Tăng Sâm thuở nào vẫn hàng ngày đòi tôi tự xét để sửa mình sớm tối. Rồi ngụ ngôn về thần thoại ‘gót chân Achilles’ xa xưa của trận chiến thành Troie nữa: dẫu có mạnh mẽ an toàn khắp chốn, nhưng chỉ cần có một điểm yếu nào đó là đã đủ cho mình có thể gục ngã bất cứ lúc nào.

Tôi bắt đầu sợ mình có thể lạc hướng ngay từ lúc sơ khởi. Tôi cũng cảm nghiệm rằng thật là khó để giữ cho tinh tuyền cái ý hướng xả thân phục vụ. Và vì thế tôi càng ngày càng ý thức rằng lý thuyết thì dễ, nhưng ở thực hành mới là gay cấn cam go. Làm sao cho cái ý chí kiên cường mãi được đảm bảo và bền vững. Biết bao kinh nghiệm cũ của các bậc đàn anh đòi phải hiểu: nhiều khi thắng trong cái lớn mà đành thua trong chuyện nhỏ bé tầm thường.

Bài học trong Tây Du Ký lại như sống dậy nơi tâm tư: Tôn hành Giả đã từng thắng thần thánh chốn thiên cung (tề thiên đại thánh!) mà rồi đành thua mưu của lũ yêu quái dưới đất. Và nữa, trong con người lúc nào chẳng thấy bóng dáng của một Trư bát Giới luôn đòi hỏi hưởng thụ vui thú và của một Sa Tăng đêm ngày đần độn u mê.

Mà cùng phụ lực với khuynh hướng vị kỷ và xác thân yếu hèn, lại còn bao quyến rũ của gian trần và thù nghịch vô hình lúc nào cũng rình rập kéo lôi. Biết đâu rồi chẳng ‘kiếm củi ba năm, thiêu một giờ’! Cái ham mê này thường dẫn tới nhiều ham mê khác. Từ chỗ say sưa danh vọng đi tới mê đắm tiền tài rồi dục vọng mấy hồi. Lúc này đâu còn có người kè kè bên mình để nhủ răn nhắc bảo. Tôi phải tự làm chủ lấy mình. Mấy ai dám sửa lỗi mấy ông cha! Và rồi biết đâu những bất hạnh sẽ liên tục khởi đầu từ đó.

Tôi cũng thường xuyên cố ghi nhớ cái hướng đi mình đã chọn lựa, đã thề nguyền dâng trọn cuộc sống để mưu cầu hạnh phúc tinh thần lâu dài cho tha nhân. Bằng sự hiện diện nhãn tiền, bằng lời khích lệ đỡ nâng và bằng một cuộc sống với gương sáng thúc đẩy, tôi đã được đặc cử làm như kẻ tiên phong lãnh đạo, kêu gọi người khác can đảm sống đức tin và giữ giới luật nước trời, như bên nhà Phật đòi giữ cho đủ tam quy ngũ giới. Tôi đã chẳng được tuyển lựa để chỉ lo cho bản thân mình được tham thiền đạt ngộ, mau thành chánh quả lấy một minh. Ở đây luôn nặng ý nghĩa của một sứ mệnh kép: tự thăng tiến để giúp thăng tiến tha nhân. Tự vươn lên để có sức kéo lôi anh em đồng loại. Mà mỗi ngày cái sứ mạng ấy như mỗi đòi hỏi thêm, nghiêm trọng thêm. Một lần dừng bước là một lần thoái hoá. Một nhịp thối lui là một tác hại gây cho cả tập thể. Để rồi chỉ còn con đường một chiều là gắng sức tiến lên, mỗi ngày mỗi khả quan hơn. Chẳng lúc nào ngưng. Không bao giờ đủ.

Lấy đâu ra được nguồn năng lực và niềm vui cho cuộc hành trình gian nan như vô tận ấy? Tất cả đã chỉ vẽ trình bày: ngoài kinh nghiệm, thánh lễ và các bí tích, Linh Mục chẳng còn tìm được ở đâu khác sức trợ giúp thần thiêng. Nhiều khi tất cả sẽ như thật khô khan, chán nhàm, lại khó để nhận ra đầu mối cơ nguyên. Thế là tháng năm cần mãi một cặp mắt siêu nhiên và một con tim hướng thượng để giao cảm và để tiếp nhận.

Những dịp gặp gỡ tha nhân nơi toà giải tội cũng trở thành những cơ hội cho tôi hiểu hơn về sự yếu đuối phàm hèn của con người, mà cũng là cái phàm hèn yếu đuối tàng ẩn trong chính tôi. Mà rồi nếu ở chỗ khác Linh Mục phải mở to đôi mắt đôi tai ra mà hiểu biết và mở miệng để rao truyền, thì ở đây, tôi lại cần biết giả câm giả điếc sau khi nghe người ta thú tội. Người xưa thường nói ‘bất si bất lung, bất tác a gia a ông’. Linh Mục không giả si dại điếc lác để trổ tài phụ mẫu như trên, nhưng là để tạo niềm tin cậy và hy vọng cho những tội nhân hối lỗi, để tất cả được thấy dễ dàng mỗi khi tới bày tỏ thổ lộ. Vòng tay Linh Mục lúc nào cũng phải được rộng mở, và trí nhớ cũng phải biết mau quên đi những chuyện cần quên, nhất là các khuyết điểm lỗi lầm của người đời.

Ngày rời ngôi trường huấn luyện, mười người như một, anh em chúng tôi đều ôm ấp một hoài bão sẽ đem hết khả năng và sinh lực ra để phục vụ, cải hoá, canh tân. Lòng trí ai cũng hăm hở cơ hồ chả mấy nữa sẽ biến thay được bộ mặt của Giáo hội, cộng đoàn. Ai nấy mang nặng trĩu hành trang của những kế hoạch với chương trình. Bởi thế ít ai thấy ngần ngại khi cần lăn xả vào các sinh hoạt hội đoàn, ít ai phàn nàn vì phải hội họp thảo luận liên miên mong tìm cách thăng tiến việc huấn luyện giới trẻ. Nơi đây, tôi cũng có dịp ra tay cơ hồ sống chết với đoàn Hùng Tâm Dũng Chí. Hết đi trại rồi tới họp bạn. Sinh hoạt bình thường hàng tuần rồi lại sinh hoạt đặc biệt mỗi tháng. Lo xong cấp giáo xứ lại lo tới cấp địa hạt, giáo phận. Nhìn lũ trẻ gọn gàng trong bộ đồng phục tươi cười ca hát theo nhịp vỗ tay, ai mà chả thấy vui, thấy hứng! Rồi lúc thấy chúng hăm hở đua nhau học hỏi về giáo lý hoặc Thánh kinh, ai mà không phấn khởi và chẳng hân hoan!

Thế là bao nhiêu vốn liếng thu thập được từ chủng viện, tôi đã đem ra đầu tư hết cho giáo xứ. Thời giờ chẳng phải chỉ dành cho các sinh hoạt học đường và đoàn trẻ Hùng dũng, nhưng còn được chia sẻ với ca đoàn Seraphim, với hội Legio Mariae, với nhóm Liên Minh Thánh Tâm và Công Lý Hoà Bình nữa. Tháng ngày nhờ vậy mà cũng qua mau vùn vụt. Hai mùa mưa nắng đổi nhau mà như không kịp ý thức. Hàng thông hùng vĩ bao quanh khu vực thánh đường như ngày đêm reo ca, giục giã. Vũ trụ cơ hồ luôn có hoa nở rực rỡ tứ bề. Đường hành hoá tựa rộng mở thênh thang.

Một năm lại trôi qua tựa giấc mơ. Rồi năm thứ hai, thứ ba nữa. Miền đất anh đào tưởng chừng đã trở nên cảnh đào nguyên với mỗi giấc mơ đều thành tựu, với mỗi dự định đều êm xuôi. Dường như tôi chẳng còn lo nghĩ hay bận tâm đến bản thân mình, bởi lòng trí để hết vào nhiệm vụ với công việc. Vào những phút giây hứng khởi nhất, tôi phảng phất nghe đâu đây tột đỉnh của lý tưởng tông đồ. Xem chừng lời hứa của vị tôn sư chí thánh đang được thực hiện từng chữ, từng câu: Ta sẽ để lại cho con niềm vui tuyệt đối cùng với niềm an bình vĩnh cửu. Lại một lần nữa, câu ca thần thánh của ngày thụ phong như vang dội khắp nẻo để cho tôi hình dung được một góc của Thiên đàng đang vây bọc.

Nhưng rồi, cuộc đời dù dưới hình thức hay địa vị nào đi nữa, cũng chẳng mãi mang sắc hồng. Bầu trời xanh rồi cũng có buổi bị mây đen kéo về bao phủ. Những nghịch cảnh hay thất bại bên ngoài, dẫu chỉ nhỏ bé thôi, một ngày nào đó sẽ liên kết với những xáo trộn bất ngờ trong tâm tư để cùng tạo gây sóng gió. Với những kẻ chọn phục vụ trong lãnh vực siêu nhiên như chúng tôi, sóng gió có thể đến bằng một sức khoẻ sa sút, bằng một dự định tan vỡ, bằng một hiểu lầm từ bề trên hay một nghi kỵ nơi bạn bè. Có những trường hợp bị giáo dân chống đối, dù vô tình hay hữu ý, Linh mục đã đeo đẳng một mặc cảm dài lâu. Chả mấy khi được nghe kể về vị tông đồ nào cả đời chưa từng đối diện khủng hoảng.

Tôi cũng đã biết thế. Biết như một chuyện căn bản của kiếp sống đang ôm ấp. Biết như để sẵn sàng mà đề phòng kẻo rồi quá bỡ ngỡ. Nhưng khủng hoảng cũng đã sừng sững tiến lại vào lúc mình ít ngờ nhất. Nó mang hình thức của một chuỗi ngày chán chường cụt hứng. Ngồi yên để nhận định sẽ thấy rằng phần chính không là do những thất bại hay va chạm bên ngoài, nhưng đã đến từ cõi tâm tư khúc mắc thẳm sâu. Biết đấy. Cảm đấy. Nhưng chẳng dễ để biết được nó ra làm sao. Mơ hồ như một khoảng trời đầy sương mù giữa một ngày nắng ráo. Giống như sợi dây đàn bất ngờ chùng xuống làm lệch lạc cung điệu. Nó hiện diện tựa tiếng dỗi hờn trách móc từ bên trong, như thầm nhủ mình nên dừng bước tháo lui. Nó âm ỉ thôi thúc phải đổi hướng đi, bởi trước đây chỉ là lầm đường, là lãng phí thời gian khiến cuộc đời đi vào bế tắc và vô nghĩa. Nó dựng lên một khoảng trống heo hút mênh mông trong hồn rồi gọi mình phải lấp đầy bằng những tình cảm, những trìu mến tự nhiên cho một con người có tim gan, xương thịt. Nó cựa quậy như muốn mở tung cánh cửa yêu thương luyến ái, riêng tư thôi, nhân loại thôi, đã từ lâu bị khép kín. Như một cái gì thầm lặng thẳm sâu muốn vùng lên làm cách mạng cho lối sống, mong đổi thay nét khô khan cằn cỗi bằng một hình thái quyến rũ ngọt ngào.

Nhiều buổi, nhất là những lúc chiều khuya lộng gió, mặt biển tâm hồn như bất ngờ nổi dậy từng cơn bão táp sóng xô. Vang vẳng gần xa niềm tiếc xót vu vơ về một thời xuân xanh bỏ phí. Ngấm ngầm phát hiện những câu hỏi mơ hồ tại sao phải chọn đi vào con đường sỏi đá, chỉ có cô đơn cùng vắng lặng làm bầu bạn. Ngoài kia, cuộc đời đang le lói đón chờ, có muôn ngàn thú vui thường xuyên hấp dẫn. Tội gì phải chôn vùi cả một kiếp sống cho một thực tại nào đâu xa lắc xa lơ!

Và tôi đã từng thấy như ngộp thở với những khoảnh khắc xung đột và những áp lực nội tâm như thế. Rồi những thành công bên ngoài không đủ để hoá giải cho những gậm nhấm soi mòn bên trong. Thành ra phương thế duy nhất để luôn đứng thẳng được chỉ còn là khiêm tốn nhận ra cái yếu hèn của mình mà đợi chờ sự trợ lực từ cõi trên cao. Đây là thời gian của tự kiểm điểm và cơ hội của tự sửa sai. Mải mê chạy theo hoạt động mà quên mất đời nội tâm nhất định sẽ là đường dẫn tới chán chường tuyệt vọng. Còn khủng hoảng sẽ phải là một nhắc bảo luôn nhớ mình chỉ là dụng cụ và phương tiện cho nguồn ơn phúc thiêng liêng. Có tài mấy, sức mấy, mình cũng chỉ là ngành nho, cần thiết phải gắn chặt với thân nho. Hoa thơm trái ngọt phải là kết quả của mối liên hệ thắm thiết giữa người môn đệ và vị sư phụ tối cao. Mỗi bữa ăn, mỗi giấc ngủ phải được phủ vây bằng ân nghĩa thiêng liêng của ngài.

Linh Mục phải sống điều mình giảng dạy đã đành, phải giảng dạy điều mình tin chưa đủ, mà còn phải củng cố và duy trì niềm tin này bằng cả một đời ra sức vươn lên, bằng cặp mắt siêu nhiên, bằng con tim phó thác, để sống và thở bằng bầu khí thiêng liêng từng giây từng phút. Kinh nguyện đây. Các bí tích đây. Nhất là thánh lễ đây nữa. Tất cả đang là những lương thực nuôi dưỡng cho tâm tư được mạnh, cho lòng trí được vững và cho linh hồn được luôn sảng khoái an vui.

Bốn năm thử lửa ban đầu may mắn đã giữ tôi còn đủ ấm trước cơn gió đời phũ phàng lạnh giá. Tôi vẫn mở lớn được đôi mắt để nhìn rõ hướng đi và nhận ra ý nghĩa đời mình. Chỉ bốn năm thôi, nhưng tôi đã phần nào cảm được bàn tay phúc ân luôn đụng chạm tới mình. Giáo xứ Đà Lạt đã cơ hồ mở màn cho cuộc thi thố ra quân phục vụ của đời tôi. Tôi tưởng tượng như năm tháng đã tràn ngập những hên may nối tiếp. Khi định mệnh khắt khe của đất nước làm thay đổi tất cả, tôi vẫn như mơ hồ không tin được ở những chuyện đã qua. Xa rời Đà Lạt, tôi biết chắc mình sẽ chẳng bao giờ quên được những kỷ niệm có lẽ đẹp nhất trong đời.



----------------------------------------
Tác giả Đường Phượng Bay
Xem thông tin cá nhân của thành viên gửi tin nhắn gửi email Website của thành viên này Yahoo Messenger
Trình bày bài viết theo thời gian:   
« Xem chủ đề trước | Xem chủ đề kế »
gửi bài mới Trả lời chủ đề này DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH -> Truyện, ký, tiểu thuyết, Ä‘oản khúc... Chuyển đến trang 1, 2  Trang kế


 
Chuyển đến
 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn
Bạn không được phép gởi kèm file trong diễn đàn
Bạn có thể download files trong diễn đàn


Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net