GPVMenu

 Phim Công giáo online 

 Lịch Phụng vụ GP Vinh 

 Giờ lễ tại các nhà thờ 

 Quỹ Học bổng NTT 

 Giấy tờ - Chứng chỉ 

 ĐCV Vinh Thanh 


_READMORE
 Gia đình Web Giáo phận 
Lam Hồng (Đức tin & VH)

Phim Công giáo

Thánh Ca Online

ĐCV Vinh Thanh

Hội dòng MTG Vinh

Quỹ Học Bổng NTT

GĐ Thánh Tâm GP Vinh

Doanh nhân GP Vinh

Giáo xứ Bảo Nham

Giáo xứ Hòa Ninh

Giáo xứ Làng Rào

Giáo xứ Nghi Lộc

Giáo xứ Tân Lộc

Giáo xứ Trung Nghĩa

Sinh viên CG Vinh

CĐ Vinh Hà Nội
 Tra cứu bài viết 
Tháng Tư 2024
T2T3T4T5T6T7CN
1 2 3 4 5 6 7
8 9 10 11 12 13 14
15 16 17 18 19 20 21
22 23 24 25 26 27 28
29 30          
 <  > 
 Thống kê truy cập 
 Khách: 23
 Thành viên: 000
 Tổng cộng 023
 Lượt tr.cập 055308773
 Từ điển online 
TỪ ĐIỂN ONLINE

 Bookmark & Share 

website security
 
Diễn đàn Giáo Phận Vinh 16.04.2024
DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH :: Tìm kiếm

 Chào mừng bạn đến với diễn đàn GIAOPHANVINH.NET


 Xem bài chưa có ai trả lời 
Đăng ký làm thành viênĐăng ký làm thành viên 

Tìm thấy 18 mục
DIỄN ĐÀN GIÁO PHẬN VINH
Người đăng Thông điệp
  Chủ đề: Xuân Cuá»™c Đời
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 4650

Bài gửiDiễn đàn: Suy niệm & chia sẻ theo chủ đề   gửi: 04.01.2011   Tiêu đề: Xuân Cuá»™c Đời
XUÂN CUỘC ĐỜI

Hiền Lâm

Hai chữ “mùa xuân” hay “ngày xuân” tự nó gợi cho con người một sự mới mẻ, tươi trẻ và vui vẻ. Thật vậy, mùa xuân không chỉ là một khởi đầu mới của một chu kỳ mới luân chuyển của vũ trụ, thiên nhiên và vạn vật, mà còn là một sự bắt đầu lại hay một trang sử mới, một tuổi mới nơi một con người, quen gọi là “mùa xuân cuộc đời”.
Thế nhưng, mùa xuân có từ lúc nào và mùa xuân có ý nghĩa gì trên cuộc sống con người? Xin đưa ra một vài suy nghĩ:

1. Một mùa xuân hay mãi mãi mãi là mùa xuân

Có thể nói, mùa xuân đầu tiên của vạn vật bắt đầu từ phút giây Thiên Chúa tạo thành vũ trụ. Tuy nhiên, danh gọi “mùa xuân” chỉ thực sự có từ khi con người biết phân biệt chu kỳ thay đổi của thời tiết và của muôn loài, để chia ra làm bốn mùa trong năm (xuân, hạ, thu và đông) và mùa xuân là mùa khởi đầu của một năm. Thế nhưng, cách phân biệt như thế cũng chỉ là tương đối, vì khí hậu hay sinh thực vật có sự thay đổi khác nhau theo từng vùng hay từng châu lục. Hơn nữa, ý niệm và sự cảm nhận mùa xuân, khí xuân hay ngày xuân của mỗi người cũng có phần khác nhau. Vì thế, nếu tính theo chu kỳ của một năm thì có một mùa xuân, nhưng vì trong các mùa hạ, thu và đông đôi khi vẫn có khí trời ấm áp, có loài hoa đua nở, có lễ hội tươi vui nên cũng có thể nói được rằng có bốn mùa xuân trong năm; mặt khác khi cảm nhận được sự ấm áp, niềm vui, hạnh phúc bất cứ lúc nào và lúc tâm hồn phơi phới đầy sức sống vươn lên, một sự khởi đầu đầy ước mơ và hy vọng… thì cũng có thể nói lúc nào cũng xuân (như mùa xuân bên cửa sổ, mùa xuân ta trao nhau, mùa xuân của tiếng cười…) hay mãi mãi là mùa xuân.

2. Mùa xuân cuộc đời

Dù hiểu theo nghĩa nào, thì điểm chung khi nghĩ đến mùa xuân đều là mùa của một sự khởi đầu mới của ước mơ, của hy vọng và của niềm vui… nói tắt, mùa xuân là một sự khởi đầu lại của vũ trụ, của sinh linh vạn vật và của con người với bao niềm vui, ước mơ và hy vọng.

a, Mùa xuân chào đời và mùa xuân vào đời

Trước hết, sự khởi đầu nơi con người nghĩa là khi một nhân vị hiện hữu, một sự sống mới được khởi sự, một đứa bé chào đời. Theo nghĩa này, mùa xuân của một con người đem lại niềm vui, ước mơ và hy vọng cho mọi người thân thuộc. Cũng thế, sự khởi đầu này mang một ý nghĩa thánh thiêng và trong trắng, thúc đẩy mọi người có sự trân trọng và trách nhiệm đối với kết quả của tình yêu, với một sự sống và với một nhân vị mới. Trong cái nhìn nhân học, ý nghĩa của sự khởi đầu này bao gồm bản tính “thiện” ban đầu (nhân chi sơ tính bản thiện) và nếu áp dụng ý nghĩa này cho ý niệm xuân thì đó là một lời mời gọi mọi người xem mùa xuân như là một sự khởi đầu lại cuộc đời để đổi mới đời sống nên tốt hơn và sức sống hơn.

Sự khởi đầu mùa xuân cuộc đời không chỉ là tuổi đời của một trẻ sơ sinh mà còn phải là một sự tái đổi mới và bắt đầu một giai đoạn mới của đời người. thật vậy, nếu thiên nhiên trải qua mùa hạ, mùa thu và lụi tàn theo mùa đông và tìm lại sự đâm chồi nẩy lộc xinh tươi đầy sức sống trong mùa xuân, thì đối với con người cũng thế, trải qua một năm đầy lo toan vất vả, mỏi mệt và mùa xuân đem lại nét vui tươi hứng khởi chuẩn bị cho một năm mới nhiều ước mơ và hy vọng. Cũng thế, mùa xuân cuộc đời nơi mỗi người là một sự khởi đầu mới, tìm lại sự tinh tuyền nguyên thuỷ, bỏ lại những yếu đuối, bất cập và thất bại để quyết tâm tiến bước trên đường mới, hướng tới một tương lai sán lạn hơn.

b, Mùa xuân Kitô hữu

Nếu khởi đầu của con người là lúc chào đời, khởi đầu của sự trưởng thành là lúc bước vào đời và đều được xem là “tuổi xuân” trong mùa xuân cuộc đời, thì việc được sinh ra trong Giáo Hội Công Giáo thì cũng được xem là mùa xuân của từng Kitô hữu. Thật vậy, qua các nhiệm tích, Kitô hữu bước vào một đời sống mới, cuộc sống của người con cái Chúa, cách sống của một công dân Nước Trời trong tin yêu và hy vọng, ngày một đổi mới và tràn đầy sức sống. Cũng thế, những lúc chán chường mệt mỏi vì tội lỗi tựa như mùa đông lạnh lẽo đơn côi, thì khi đến với bí tích Giao Hoà, Kitô hữu lại bắt đầu những ngày xuân mới trong Đức Kitô.

Mùa xuân của Kitô hữu còn được hiểu là khởi đầu của một chu kỳ phụng vụ, của những lễ hội, những ngày kỷ niệm và những đại lễ tôn giáo, hay khi đón nhận thêm những người gia nhập đoàn chiên Chúa. Cũng có thể nói mùa xuân của Kitô hữu cũng là mùa xuân của Giáo Hội.

c, Mùa xuân của ơn gọi thánh hiến

Bước vào đời thánh hiến, các tu sĩ như được sinh lại một lần nữa trong một lý tưởng mới, khởi đầu một phương thức sống mới, một sự đổi mới triệt để cho sự nghiệp Nước Trời. Hiểu theo nghĩa này thì lúc gia nhập tu hội hay dòng, ngày lãnh áo dòng, khi tiên khấn hay vĩnh khấn… được xem như là một mùa xuân mới trong sự đổi mới, khởi đầu và tiếp bước một trang sử mới vươn lên đầy sức sống và hạnh phúc.

Mùa xuân trăm hoa đua nở… Khi có những nơi trong Giáo Hội có nhiều ơn gọi trẻ, nhiều hình thức tu trì mới ra đời… đó cũng có thể xem là mùa xuân của đời sống thánh hiến và của Giáo Hội. Hiểu được điều này, thiết tưởng sẽ lạc quan hơn khi đối diện với hiện trạng của những n?i khan hiếm hơn gọi và một số nhà dòng hoặc tu hội không thể duy trì nơi một số nước Âu Châu, tứ đó tin tưởng rằng đó chỉ là một giai đoạn của mùa đông và đang chuẩn bị cho một mùa xuân mới bắt đầu, hoặc như cây già phải chết đi để nhường chỗ cho những mầm non mới thích hợp với môi trường mới hơn.

d, Xuân vĩnh cửu

Sự luân chuyển của thời gian nói lên tính hữu hạn của vũ trụ, của thời tiết và của sinh linh vạn vật. Có khởi đầu thì có kết thúc, mùa xuân tươi trẻ chuyển dần đến mùa đông già cỗi và tàn lụi, con người thêm một mùa xuân cũng đồng nghĩa một tuổi mới và đi dần về mùa đông tuổi già để rồi phải dừng lại nơi nấm mộ. Nói tóm, không thể có mùa xuân vĩnh cửu nơi cuộc sống dương gian, vì thế người có niềm tin hướng đến một mùa xuân bất diệt không bao giờ tàn lụi nơi kiếp sống mai sau, mà cái chết là phút giao thừa kết thúc ngày mùa đông cuối cùng của trần gian để khai mở mùa xuân bất diệt. Kitô hữu biến ước mơ thành đạt nơi dương gian thành niềm hy vọng hằng sống nơi Thiên Quốc, ở đó chỉ mãi mãi là mùa xuân.

Kết luận

Mùau xuân, một sự khởi đầu trong niềm vui, tin yêu, ước mơ và hy vọng của vũ trụ, của thiên nhiên và cách riên của con người trong mùa xuân cuộc đời. Sự khởi đầu của con người lúc sinh ra, lúc vào đời, lúc chọn sống theo một niềm tin, bước theo một lý tưởng hay khi bước vào vĩnh cửu… Tất cả đều nói lên một sự khởi đầu, một sự đổi mới không ngừng để hướng về mai hậu. Mùa xuân cuộc đời khởi sự trong thời gian nhưng kết thúc trong vĩnh cửu, khởi đầu đầy giới hạn mà nhưng hướng tới vĩnh hằng.

.
  Chủ đề: Mẹ Là Mùa Xuân
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 6048

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 30.12.2010   Tiêu đề: Mẹ Là Mùa Xuân
    LẠY MẸ LÀ MÙA XUÂN

    Hiền Lâm

    Lạy Mẹ là mùa xuân:
    Là nắng hồng tươi mới,
    Là mưa rơi tưới gội,
    Là gió thoảng chiều hôm.

    Lạy Mẹ là mùa xuân:
    Là hoa đào tươi nở,
    Là bông mai đương trổ,
    Là khóm huệ trắng ngần.

    Lạy Mẹ là mùa xuân:
    Mùa tình yêu hiệp nhất,
    Mùa giao hoan trời đất,
    Mùa ấm áp tình thân.

    Lạy Mẹ là mùa xuân:
    Là mẫu gương Thánh Thất,
    Là Nữ Vương trời đất,
    Là Mẹ Đấng Tình Quân.

    Lạy Mẹ là mùa xuân:
    Là mẫu gương lao động,
    Là niềm vui cuộc sống,
    Trong ẩn dật âm thầm.

    Lạy Mẹ là mùa xuân
    Con hướng nhìn về Mẹ
    Thì thầm con kể lể
    Những mẩu chuyện đầu năm.

    Xin Mẹ là mùa xuân
    Cho đời con đổi mới,
    Cho con yêu ơn gọi
    Yêu cuộc sống âm thầm.

    Xin Mẹ là mùa xuân
    Nguyện dủ tình thương đoái
    Trông xem đoàn con cái
    Giữa kiếp đời lê dân.

    Xin Mẹ là mùa xuân
    Thương cầu thay nguyện giúp
    Lên Chúa Cha thương xót
    Cho con thoát biển trần…


.
  Chủ đề: Xin Chúa mở môi miệng con
hoanghoa

Trả lời: 1
Xem: 6884

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 27.12.2010   Tiêu đề: Xin Chúa mở môi miệng con
XIN CHÚA MỞ MÔI MIỆNG CON
(lời kinh của thánh Hilaire de Poitier)

… Hạnh phúc con trọn đời là Chúa
Là biết Ngài vĩnh cửu, toàn năng.
Ân sủng con là được nói năng
Mà Chúa ban để làm vinh dự.,

Phần lớn lao đó là phục vụ
Và xưng Ngài: “Cha của Ngôi Con”
Là điều con mong ước mỏi mòn
Khẳng định Ngài hết còn tâm trí.

Con hết lòng khẩn cầu nài nỉ
Xin Ngài ban Thần Khí trên con,
Thổi đức tin căng tựa cánh buồm
Để ra khơi vui mừng thả lưới.

Con tung gieo khắp cùng thế giới
Thánh danh Ngài rạng rỡ hùng oai
Với người chưa biết Chúa là ai,
Với những ai u hoài lạc giáo.

Con tin Ngài là Cha nhân hậu
Chẳng bao giờ Ngài lại hứa suông:
“Cứ gõ rồi cửa sẽ mở tung,
Cứ kêu xin thật lòng sẽ được”

Con thiếu thốn nên nhiều mộng ước
Con bần cùng: xin được đầy dư.
Muốn hăng say theo bước Tông Đồ
Mọi cửa lòng; tay con mãi gõ,

Khoá đức tin xin Ngài kéo mở
Chân lý Ngài rạng rỡ khắp nơi.
Con tuyên xưng: Chỉ có mình Ngài
Là toàn năng, nhận lời khẩn nguyện

Và chính Ngài thương ai tìm kiếm…
Mở cửa trời cho kẻ thành tin.

Hiền Lâm dịch

.
  Chủ đề: [ThÆ¡] Đêm Thánh Vô Cùng
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 5995

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 23.12.2010   Tiêu đề: [ThÆ¡] Đêm Thánh Vô Cùng
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG

Hiền Lâm

Đêm nay đêm thánh vô cùng,
Đêm nay Con Chúa Cửu trùng giáng sinh,
Đêm nay ánh sáng bình minh
Chiếu soi trên mọi sinh linh vũ hoàn,

Đêm nay thiên sứ hân hoan
Hát: “Vinh danh Chúa, bình an muôn loài”.
Đêm nay Chúa viếng dân Người,
Đêm nay xe kết đất trời không trung,

Đêm nay đêm thánh vô cùng
Đêm nay nhạc thánh tưng bừng vang xa…


.
  Chủ đề: [ThÆ¡] Ánh Sao
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 5891

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 23.12.2010   Tiêu đề: [ThÆ¡] Ánh Sao
ÁNH SAO

Hiền Lâm

Có ánh sao rạng ngời chói lọi
Điềm báo vui kêu gọi con người,
Loan tin Chúa Tể đất trời
Giờ đây sinh hạ làm người trần gian.

Có ánh sao huy hoàng sáng tỏ
Phá màn đêm soi rõ Hài Nhi,
Giúp người trông giữ chiên dê
Trú nơi đồng vắng, tìm về bái dâng.

Ánh sao nên lửa hồng sưởi ấm
Giữa đêm đông lạnh thấm da người
Trong khăn Ấu Chúa mỉm cười
Ánh sao sưởi ấm cho Người ngủ yên.

Ánh sao nên điềm thiêng lộ diện
Giúp Ba Vua tìm đến hang lừa
Bái chầu dâng tiến Đức Vua
Vàng, hương, mộc dược… “điềm đưa nhiệm mầu”.

Nhưng…
Trên bầu trời hôm nay
Có ngàn vạn ánh sao
Con tìm đâu ra…
Ánh sao nào là ánh sao ngày ấy?
Để cùng sao con vào thờ lạy
Dâng Chúa Hài Đồng lễ vật đêm nay…


.
  Chủ đề: [ThÆ¡] Chiều Đông
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 5812

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 17.12.2010   Tiêu đề: [ThÆ¡] Chiều Đông
CHIỀU ĐÔNG

Hiền Lâm

Chiều tàn phủ ngập bóng hoàng hôn
Quán trọ Bê-lem đã ứ dồn.
Giu-se không còn nơi trú ngụ,
Ma-ry đã hết chỗ sinh con.
Hang đá tồi tàn nên quán trọ,
Máng lừa chật chội tựa nôi ươm.
Vua cả càn khôn vào dương thế
Đìu hiu cô quạnh… cảnh đông buồn.


--------------
  Chủ đề: [ThÆ¡] Giấc mÆ¡ bay
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 5771

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 16.12.2010   Tiêu đề: [ThÆ¡] Giấc mÆ¡ bay
Giấc Mơ Bay

Hiền Lâm

Giữa đêm buồn, trời mùa đông lạnh giá
Thiếp giấc nồng, đêm dài, ngả canh hai
Tôi chiêm bao: mơ mộng… giấc thiệt dài
Ngược thời gian tìm về Ngày Sáng Thế:

Tôi bơ vơ tìm địa đàng nguyên thủy
Kiếm cội nguồn nơi nguyên tổ phát sinh
Tìm cây xanh: muôn hoa ngọt trái lành
Và trái cây biết điều lành điều dữ…

Tôi buồn rầu nhìn địa đàng dang dở
Cây “trường sanh bất tử” có còn đâu,
Không trái ngon… chỉ còn đất bạc màu
Bao thú muông… trốn về đâu chẳng rõ?

Và A-đam, E-và đâu còn nữa,
Thầm trách hờn nguyên tổ dại kiêu căng
Muốn cao sang ngang sánh Đấng Vĩnh Hằng
Để tội đời làm tiêu tan tất cả.

*
* *

Giấc mơ bay… lại giấc mơ kỳ lạ:
Đưa tôi vào nơi hoang dã đồng hoang
Thôn Bêlem trong lạnh giá đêm trường
Tiếng dế kêu… đám mục đồng canh thức.

Bỗng từ đâu: tiếng sứ thần ca hát
Lời “vinh danh Thiên chúa chốn cung trời
Và bình an cho nhân loại khắp nơi”
Hoà tiếng chuông giao thời vang rộn rã.

Tôi giật mình trước những điều kỳ lạ
Khi nhìn vào một hang đá nhỏ xinh
Có ánh sao chiếu sáng khóm đùng đình
Từ trong hang một vầng hồng toả rạng,

Một trẻ thơ mới sinh nằm trong máng,
Một mẹ hiền quỳ chiêm ngắm niệm suy,
Một người cha nhóm lửa… ấm Hài Nhi
Mấy chú lừa con thở làn hơi ấm…

Tôi cung chiêm và thì thầm tự hỏi:
Cảnh địa đàng… có phải đã tái sinh?
A-đam mới phải chăng đã thành hình?
E-và mới nay lại là Mẫu Thánh?

Trong trí tôi vọng lên lời Kinh Thánh
Này Ngôi Hai – Cứu Chúa đã hạ sinh
Đầy khiêm nhu, mang lấy kiếp tội tình,
Chính Ngài là cây Trường Sinh Bất Tử.

Vườn địa đàng nay là hang đá nhỏ,
Aùnh sao đông thay tinh tú muôn trùng
Maria – Eva mới khiêm nhường
Đám lừa chiên thay muôn ngàn muông thú.

Tôi vui quá và vỗ tay mừng rỡ
Nào ngờ đâu đụng phải bức tường thưa
Bừng tỉnh dậy tôi mới biết mình mơ
Kinh ngạc quá! Ôi giấc mơ kỳ diệu!




---------------------------
  Chủ đề: [ThÆ¡] Ngài đến tìm ai ?
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 5691

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 13.12.2010   Tiêu đề: [ThÆ¡] Ngài đến tìm ai ?
NGÀI ĐẾN TÌM AI
Hiền Lâm

Tôi mãi ngỡ ngàng trông mơ mộng
Trước tình yêu Chúa thật mênh mông:
Này Con Thiên Chúa vào dương thế
Mang phận phàm nhân, sống cơ cùng.

Hạnh phúc cao sang chốn thiên đàng
Huy hoàng chói lọi ánh linh quang
Sao bỏ ngai vàng vào dương thế
Sinh chốn hoang lừa, giữa đồng hoang ?

Ngài bỏ ngai vàng đến tìm ai
Khi ánh kim ô khuất non đoài,
Khi bóng hoàng hôn đà buông xuống
Khi màn tăm tối ngập trần ai ?

Ngài đến tìm ai, kiếm tìm ai
Không đến cung triều: Chốn vinh oai,
Không kiếm giàu sang nơi thành thị,
Lại tìm hang vắng… giữa đêm dài ?

Ngài đến tìm ai chốn lạnh lùng
Đìu hiu cô quạnh: cảnh trời đông ?
Sao không giáng thế vào xuân ấm,
Hay lúc hạ sang đượm nắng hồng ?

Vua đến tìm ai chốn hoang đồng
Lấy máng cỏ làm bệ ngai long,
Không có quan quân theo hầu cận
Chỉ có dăm ba đứa mục đồng ?

***
Có phải rằng Ngài đến tìm tôi
Đang sống bơ vơ giữa dòng đời,
Đang mãi lạnh lùng trong tiết giá,
Nghèo nàn tội lỗi với đơn côi…?

Ngài đến tìm tôi, kiếm tìm tôi,
Ngài đến mang thay án tội đời,
Ngài đến phá tan màn tăm tối,
Ngài đến tìm tôi, đến tìm tôi.
  Chủ đề: [ThÆ¡] Ná»—i lòng
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 5807

Bài gửiDiễn đàn: Vườn ThÆ¡ - Nhạc   gửi: 13.12.2010   Tiêu đề: [ThÆ¡] Ná»—i lòng
Ná»–I LÃ’NG

Hiền Lâm

Lễ vật đêm nay con dâng Chúa
Là cả nỗi lòng ngập ưu tư
Thương người Miền Trung đang đau khổ
Cơn lũ vừa rồi… Chúa biết chưa?

Thật là khủng khiếp những cơn mưa
Gây bao tổn hại, kể sao vừa
Cuốn trôi cơ nghiệp, trôi nhà cửa
Màn trời, chiếu đất, sống bơ vơ

Thử hỏi bây giớ nơi miền ấy
Có được niềm vui Chúa Giáng Sinh
Hay vẫn cơ cùng trong đói rét,
Chưa có miếng cơm lót dạ mình.

Lạy Chúa Ngôi Hai, vua An Bình
Đêm nay Ngài đến viếng sinh linh
Xin mau cất bước về Trung Bộ
Nâng đỡ ủi an mọi gia đình…


---------------------
  Chủ đề: Ã nghÄ©a Kitô giáo trong Tế Nam Giao của người Việt
hoanghoa

Trả lời: 0
Xem: 5840

Bài gửiDiễn đàn: Những bài viết không thuá»™c chủ đề nào   gửi: 13.12.2010   Tiêu đề: Ý nghÄ©a Kitô giáo trong Tế Nam Giao của người Viá
Ý NGHĨA KITÔ GIÁO
TRONG TẾ NAM GIAO CỦA NGƯỜI VIỆT


Hiền Lâm


DẪN NHẬP

Đất nước Việt Nam có một bề dày lịch sử với bao thăng trầm trong việc dựng nước và giữ nước, bắt đầu từ những tộc người thiểu số đến việc phát triển thành một đất nước độc lập…Song song với việc phát triển lãnh thổ và vật chất, đời sống tinh thần và tâm linh cũng phát triển theo; niềm tin tôn giáo từ sự bộc phát mộc mạc thời sơ khai, đến việc ảnh hưởng của tôn giáo du nhập và trải qua bao thăng trầm tôi luyện, người Việt đã có được một niềm xác tín vào sự hiện diện của ông Trời vừa siêu việt vừa gần gũi với cuộc sống của họ. Thế nhưng, niềm tin của người Việt lại mang tính đại đồng, vừa sẵn sàng tiếp thu mọi ảnh hưởng của các tôn giáo lại vừa giữ cho mình những nét rất riêng, vì thế, tự nó tạo nên một nền thần học rất phong phú. Chính điều này thật không dễ dàng khi nghiên cứu một nền thần học Việt Nam, cách riêng về ngôi vị độc nhất của Trời… trong giới hạn bài này, chỉ xin tập chú vào tìm hiểu những nét thần học chính yếu qua Tế Nam Giao mà thôi.

I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TẾ ĐÀN NAM GIAO

Con người là một hữu thể tôn giáo nghĩa là đời sống tinh thần của họ luôn gắn liền với ý niệm niềm tin và lời cầu nguyện. Niềm tin tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người và thường được biểu lộ ra bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện này có thể là âm thầm và mang tính cá nhân, nhưng cũng có những lúc lời cầu nguyện mang tính tập thể có nghi thức và tổ chức long trọng như nghi lễ cầu mùa, lễ cầu an… Một trong những hình thức cầu nguyện mang tính tập thể có quy mô lớn và long trọng, trong niềm tin của người Đông Phương, đó là lễ tế Nam Giao.

Vậy lễ tế Nam Giao là gì ? Nó có nguồn gốc từ đâu? Cách thức lễ tế như thế nào?...

1. Từ ý: Nam Giao được kết từ hai chữ “Nam” và “Giao”.

Nam: Nghĩa là phía Nam, theo quan niệm địa lý của phương Đông, phía nam là hướng ánh sáng, nơi có ông Trời ngự, ngược với hướng Bắc là tối tăm . Riêng đối với người Việt, Nam còn được hiểu là Nước Nam (phần lớn các triều đại trong lịch sử nước ta chọn quốc hiệu có chữ Nam như (Nước Nam, Đại Nam, Nam Việt, An Nam, Việt Nam).

Giao: nghĩa là giao hòa, gặp gỡ.

Như vậy, Nam Giao là nơi vua chúa và thần dân hướng về phía nam (nơi có Trời ngự), để gặp gỡ giao hòa với Trời qua việc dâng lễ vật để tỏ lòng hiếu kính, dâng sớ để trình tấu việc đất nước và cầu Trời ban phước lành.

2. Nguồn gốc

Tế Nam Giao là một nghi lễ có từ rất xa xưa từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam:

Trung Quốc: các nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa cho rằng: Tục tế Trời Đất có từ thời vua Phục Hy (2852-2737 tcn). Tương truyền rằng vua Phục Hy thấy bức Hà Đồ do một con rùa từ dưới sông Hoàng Hà đội lên, vua nhìn đó và vạch ra Aâm Dương- Bát Quái, trong đó có quẻ Thiên (Trời), ứng với phía Nam, với ánh sáng…Trong thời này, có tế đàn Nam Giao nói lên một nước độc lập và có cơ cấu tổ chức. Việc tế Nam Giao chỉ có mục đích cầu an.

Đến cuối đời nhà Chu (1050-770 tcn) bắt đầu loạn lạc, các nước thay nhau “ tranh bá xưng hùng”, Nước nào là chủ mới được xây Đàn Nam Giao và vua nước đó được gọi là Thiên Tử có quyền tế Trời, còn các vua chư hầu chỉ được gọi là Vương Công. Từ đó Tế Nam Giao có thêm ý nghĩa mang màu sắc chính trị.

Tuy nhiên, theo quan niệm Phương Đông: “ Trời sinh ra muôn vật, điều khiển mọi sự và chủ trì vận mệnh mọi người” . Vì thế, tế Trời phải cử hành ở nơi trang trọng nhất để nói lên thái độ kính cẩn và tôn trọng của con người đối với Trời là vị chủ tế tác thành và điều khiển vũ trụ càn khôn . Có lẽ từ quan niệm đó mới sinh ra việc chọn hướng, chọn nơi trang trọng để tế lễ Trời Đất. Lễ Tế Nam Giao được hình thành và phát triển có quy mô lớn vào thời Nho Giáo (Trung Quốc) khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.

Việt Nam: Thế kỷ XI khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) xây được một nền độc lập chính thức cho đất nước, nhà Lý cho xây dựng Nam Giao, như một cánh để tạ ơn Trời, đồng thời khẳng định với phương Bắc về chủ quyền của nước Nam. Tế Đàn Nam Giao được xây dựng đầu tiên ở phía Nam Thăng Long và mỗi năm tế một lần vào ngày đầu năm, nhà vua thay dân tế Trời để tạ ơn và cầu xin cho được quốc thái dân an.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, vừa có vua vừa có chúa chẳng rõ ai là Thiên Tử để tế Trời, và hình như thời này không còn tế Nam Giao.
Khi Nguyễn Aùnh chiếm được Thăng Long, lên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long. Năm 1802, vua đặt kinh đô ở Phú Xuân (Huế). Vào 1803 vua cho xây dựng đàn Nam Giao tại làng An Ninh (Huế), đến 1806 đàn Nam Giao được dời về phía Nam của kinh thành, đặt trên một quả đồi lớn thuộc làng Trường An thành phố Huế.

3. Kiến trúc:

Khởi đầu tế đàn rất đơn giản, chỉ là một gò đất cao ở phía nam, trên đó là một bàn thờ lộ thiên là nơi để vua thay dân tế Trời vào đầu năm để cầu bình an cho dân nước, xin cho được mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt… Nhưng dần dần trải qua các triều đại, xã hội phát triển đời sống kinh tế và văn hoá dân nước được nâng cao thì tế đàn cũng được xây dựng một cách có quy mô, có ý nghĩa mang tính tôn giáo và triết lý hơn.

Đến thời vua Gia Long, tế đàn Nam Giao được xây dựng rất công phu và có quy mô lớn: Đàn gồm 3 tầng xây chồng lên nhau, tượng trưng cho “Tam Tài”: Thiên- Địa-Nhân. Xung quanh được bó gạch xếp chắc chắn. Nền đàn có kích thước 340 x265m.

Tầng trên cùng : Hình tròn gọi là viên đàn, tượng trưng cho Trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh, có đường kính 40,5m, cao 2,8m. trên nền viền đàn có lót những viên đá có thanh lớn được khoét lỗ tròn, đến kỳ tế lễ những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh, có hình nón gọi là thanh Oác.

Tầng dưới cùng: Hình vuông có lan can quét vôi màu đỏ, tượngtrưng cho con người, có kích thước 165m x165m, nền cao 0,85m. cả 3 tầng đều trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông- Tây-Nam-Bắc. Ngoài bàn thờ Trời-Đất, hai bên còn có hương án thờ Tiên Đế và bên cạnh còn có 8 hương án phụ thờ thần Mặt Trời- Mặt Trăng, các Tinh Tú, thần Mây, Mưa, Gió,Sấm; Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển…

Xung quanh đó còn có các công trình phụ như: Trai cung, là nơi dành cho vua nghỉ ngơi, trai tịnh vài ngày trước khi cử hành lễ tế. Thần trụ, tức là nhà bếp nơi chuẩn bị các con vật chuẩn bị cúng tế. Thần khố, tức là nhà kho chứa đồ cúng tế.

4. Nghi lá»…:

Nghi lễ là trọng tâm, là cao điểm nên phải được chuẩn bị rất kỹ càng từ đồ trang trí đến lễ vật và cả những người sẽ trực tiếp cử hành nghi lễ.

Ba ngày trước hôm đại lễ, vua ngự giá từ Đại Nội đến ở trai cung, để trai giới trong ba ngày. Trong thời gian này các cơ quan trợ tế ở tạm tại các nhà tranh dựng xung quanh sân. Có một buổi tập do một vị đại thần đóng vai chủ tế thay vua.

Chính lễ: Bắt đầu đúng giờ Tý, vì vua là Thiên Tử nên chỉ có vua mời thay dân để chủ tế, cúng tế Trời, cầu bình an cho dân nước, xin cho mưa thuận gió hoà mùa màng tươi tốt. Vì vậy, nhà vua phải mặc áo bào, đội mũ vào để quỳ lạy, dân chúng thì tham dự một cách nhiệt tình và sốt sắng. Khi việc tế lễ đã hoàn tất nhà vua đã trở lại trai cung để báo về các nghi lễ đã được thực hiện đầy đủ trang nghiêm và kính cẩn. Xong lễ vua xa giá vào cung vào đầu giờ thìn (khoảng 8 giờ sáng). Dọc đường dân chúng đã đón chờ sẵn để chào mừng.

Nghi lễ này vào thời gian đầu được cử hành mỗi năm một lần vào đầu mùa xuân. Nhưng đến thời vua Thành Thái (1907) thì đổi lại 3 năm một lần.

II. Ý NGHĨA THẦN HỌC TRONG TẾ ĐÀN NAM GIAO

Tế Nam Giao là một nghi lễ tế tự mang tính cộng đồng (cấp quốc gia) lớn nhất của Việt Nam thời phong kiến, vì thế được chuẩn bị rất công phu từ việc thiết kế tế đàn, lễ vật đến cách cử hành…Tất cả đều mang ý nghĩa rất đặc biệt có tính tôn giáo. Dưới đây xin được khai triển những nét thần học xuyên qua từng mục: Từ ý, kiến trúc tế đàn, niềm tin và nghi lễ:

1.Ý nghĩa của danh từ tế đàn Nam Giao

Như đã nói ở trên, Nam Giao nghĩa là nơi hướng về phía Nam để gặp gỡ Trời. Phía Nam là phía ánh sáng, ta rút ra được ý nghĩa mang tính thần học khi quan niệm Trời ngự trong ánh sáng, nơi phát xuất mọi chúc lành làm cho mọi sự tốt tươi . Điều này rất giống v?i ni?m tin Kitơ giáo ???c th? hi?n trong th?n h?c Gioan: “Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng…” (1Ga 1.5-7)

2. Ý nghĩa từ mô hình tế đàn Nam Giao

Qua kiến trúc tế đàn, chúng ta đặc biệt chú ý đến bàn thờ thiên, dù thô sơ hay cầu kỳ theo từng thời đại vua chúa, thì cũng đều được đặt trung tâm nhất, cao nhất và lộ thiên, không có tượng ảnh gì trên tế đàn và các bàn thờ khác chỉ đặt bao quanh phía dưới mà thôi. Điều này cho thấy niềm tin của người Việt rất tiến bộ, nghĩa là:

- Dầu có mang dáng dấp đa thần, nhưng Trời vẫn là Chúa Tể Càn Khôn, Đấng cao cả vượt trên hết chư thần. Đây cũng là niềm tin của Do Thái Giáo, như trong Kinh Thánh: “ Thiên Chúa chúng ta vượt trên hết chư thần” (Tv134,5)

- Bàn thờ lộ thiên và không có ngẫu tượng. Đây là cách bày trí rất gần với cách mà các tổ phụ đã làm trong Kinh Thánh Cựu Ước, cũng như cách cắt nghĩa của Phaolô. “Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ, không ngự trong những điều do tay người phàm làm nên” (Cv17, 14-15)

3. Ý nghĩa nghi lễ Nam Giao

Đây được xem là nghi thức có tính Thiên Chúa Giáo nhất. Từ việc quan niệm vua là “Thiên Tử” (con Trời) đến việc vua phải trai giới để bước vào tế Trời, và chỉ có mình “Thiên Tử” mới được tế Trời mà thôi, cho thấy nhiều nét thần học cơ bản sau đây:

- Kinh Thánh Cựu Ước nói nhiều đến việc các vị đại diện cho dân đến gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn phải thanh tẩy mình (x. Xh 18, 10-15; Đn l8, 21; 2Sm 13,20…). Về sau trong Kitô giáo việc này được thay thế bằng việc chuẩn bị tâm hồn khi bước vào nghi lễ phụng vụ.

- Chỉ có một mình “Thiên Tử” mới được tế Trời, cũng giống như trong Do Thái Giáo, nơi cực thánh chỉ duy một mình Thượng Tế mới được vào mới thay lễ cho dân. Chính quan niệm “ Thiên Tử” của người Việt cho ta thấy nét thần học gần với Kitô học của Kitô Giáo:

a, Kitô học về Con Thiên Chúa

Như thời nhà Chu (Trung Quốc), hai chữ “ Thiên Tử” được dành cho vua của một nước độc lập. Cũng thế, mỗi khi có chủ quyền các vua Việt được coi là “Thiên Tử” (nhưng chỉ là trong nghi thức tế tự Nam Giao mới được xưng danh rõ này). Thiên Tử nghĩa là con của Trời, như thế mặc nhiên gọi Ông Trời là CHA. Dù từ “ Cha” ở đây không được hiểu theo tử hệ (đản sinh) nhưng là Cha theo tương quan tạo thành, nghĩa là không theo tương quan Đức Kitô và Chúa Cha trong Kitô Giáo, nhưng ít ra khi gọi ông Trời là Cha đã là một bước tiến lớn, thậm chí hơn cả Do Thái Giáo và phần nào gần với mặc khải Đức Kitô về Thiên Chúa là Cha.

b, Kitô học về Đấng Trung Gian

Hình ảnh thần dân tụ tập ở tế dàn Nam Giao, và một mình “ Thiên Tử” bước lên tế Trời và cầu phước cho dân, cho thấy vua đóng vai trò như vị Thượng Tế vào “Nơi Cực Thánh” để chuyển cầu cho dân trong “Do Thái Giáo”. Chỉ một mình vua mới có đủ tư cách làm “trung gian” chuyển cầu cho dân, đủ khả năng gặp gỡ Trời và thay Trời hành đạo. Hình ảnh này thật đẹp và gần với hình ảnh Đức Kitô-Đấng Trung Gian Duy Nhất- Đấng đại diện Chúa Cha để ban ban phúc cho nhân loại, đại diện nhân loại dâng lên Chúa Cha mọi của lễ và mọi lời chuyển cầu của con người.

c, Ý nghĩa cứu độ học

Lật lại lịch sử Nam Giao, ta thấy chỉ một nước có đủ chủ quyền tự do hoàn toàn thì vua mới được gọi là “Thiên Tử” và cũng đương nhiên mới có quyền tế Trời. Chẳng hạn thời Khổng Tử nhà Chu có rất đông các nước chư hầu, nhưng chỉ có một vương quyền nhà Chu mới là Thiên Tử còn tất cả các nước chư hầu vua chỉ được gọi là Vương Công và không có quyền tế Nam Giao. Điều này cho thấy, một khi vua nước Nam xây dựng tế đàn Nam Giao, thì cũng đồng nghĩa với việc khẳng định chủ quyền độc lập của mình. Thiên Tử và độc lập gắn liền với nhau. Vì mất chủ quyền độc lập thì “Thiên Tử” cũng không còn và ngược lại.

Đọc lại Kinh Thánh Cựu Ước, lúc dân Israel nô lệ cho Ai cập thì không còn được lập bàn thờ kính Yavê và đồng thời cũng không người dẫn dắt. Đến lúc lưu lạc trong sa mạc nay đây mai đó họ cũng không có đền thờ cố định để kính Chúa, cho tới khi hoàn toàn độc lập, có vua thì bắt đầu xây dựng Gierusalem làm nơi tế tự và là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Điều này gợi cho chúng ta một gì na ná giống nhau giữa đền thờ Giêrusalem và tế đàn Nam Giao vậy.

Vượt trên những thực tại trần thế, xuyên qua tế Nam Giao, chúng ta có thể sánh ví Tế Đàn Nam Giao như là “hình ảnh’’ Đức Kitô, là đền thờ, là nơi gặp gỡ là nơi giao hoà, giao ước với Trời và với nhau. Đồng thời, cũng như qua tế Nam Giao, nước Nam khẳng định quyền độc lập tự do, thì nơi Đức Kitô người kitô hữu cũng tự hào về quyền tự do làm con Thiên Chúa trong vương quốc của “Thiên Tử” vậy.

4. Niềm tin vào ông Trời thể hiện qua tế Nam Giao

Tế tự chính là cách biểu lộ niềm tin, từ những lời cầu nguyện riêng tư đến cách tế tự có tính cách cộng động. Tế Nam Giao là một cách thể hiện niềm tin vào sự hiện hữu của Trời có tính cách cộng đồng quy mô nhất cấp quốc gia.

Niềm tin vào Trời đã ăn sâu vào tâm thức người Việt có từ rất xa xưa với nhiều quan niệm khác nhau, phần lớn quan niệm Trời phù hợp với cuộc sống và các hiện tượng. Riêng trong tế Nam Giao lại cho thấy bản tính siêu việt và chức năng của Trời: là Đấng sáng tạo càn khôn, quan phòng mọi sự và phân xử công minh cầm cân nảy mực.

a, Ông Trời là Đấng sáng tạo càn khôn

Như những người con mỗi dịp xuân về tụ họp quanh bố mẹ để chúc tuổi, lắng nghe lời nhắn nhủ của đấng sinh thành, vua là thần dân nước Nam mỗi dịp đầu năm mới cũng đến Nam Giao để thắp hương dâng của lễ cho Trời là Đấng Tạo Thành và xin được bình an thịnh vượng.

Niềm tin vào Trời tác tạo được diễn tả rất nhiều trong dân gian; ở Nam Giao được thể hiện rất cụ thể qua cách xây dựng tế đàn và nghi lễ tế tự:

+ Tế đàn được thiết kế hội tụ mọi biểu tượng vũ trụ vạn vật, nhưng có Trời là chủ tể càn khôn ngự trên tất cả, ý nói Trời là Đấng Tạo Dựng vạn vật.

+ Các lễ vật nói lên lòng hiếu kính mà Thiên Tử đại diện dâng lên Đấng Sinh Thành.

b, Ông Trời là Đấng Quan Phòng

“Trời che chở, Trời sinh voi Trời sinh cỏ, lạy Trời mưa xuống…” Ý niệm về Trời không chỉ là Đấng Tác Tạo mà còn quan phòng che chở biểu lộ khá rõ trong Tế Nam Giao qua việc Thiên Tử và thần dân đến cầu xin mưa thuận gió hoà, năm mới an khang thịnh vượng…

c, Ông Trời là Đấng xét xử công minh

Như trong “bản tuyên ngôn” chính thức đầu tiên mà Lý Thường Kiệt tuyên bố với giặc Tàu:

“ Nam Quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư…
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Như õđẳng hành khan thủ bại hư”

Cho thấy rõ ràng niềm tin: mọi sự do Trời phân định, đã được ghi rõ trong “thiên thư” (sách Trời) và ai chống lại sự phân định ấy sẽ tự chuốc lấy thất bại. Trời ngự chốn cao xanh, nhìn thấy tất cả, thấu suốt cả tâm can… Nơi xét xử của người xưa,ai cũng nại đến sự công minh của Trời và xin Trời chứng giám khi nói: “Đèn Trời soi xét”.

Như vậy: phải chăng người Việt đã được mặc khải về bản tính sáng tạo, quan phòng và thẩm phán công minh của Chúa Trời? Thật ra, niềm tin này là do những cảm nghiệm và trực quan một cách mãnh liệt đến nỗi người Việt xác tín rằng “Không có Trời ai ở được với ai?”. Sự hiện hữu của Trời đã ăn sâu trong tâm thức mọi người, nên không một học thuyết nào có thể phủ nhận được.

Niềm tin vào Ông Trời là Đấng Sáng Tạo, Quan Phòng và Công Minh xét xử rất gần với thần học Thiên Chúa Giáo. Nhiều chỗ trong Kinh Thánh, chính Thiên Chúa đã tự mặc khải Ngài là Đấng Sáng Tạo, Quan Phòng và Công Minh. Chính Người cũng thực hiện chức năng đó trong lịch sử nhân loại và lịch sử cứu độ và đó cũng là niềm tin căn bản của mọi tôn giáo lớn trên thế giới.

III. ẢNH HƯỞNG CỦA LẾ TẾ NAM GIAO TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH NGƯỜI VIỆT NAM

Khi đặt niềm tin vào một điều gì hay một ai đó, thì chính điều mình tin sẽ chi phối trên mọi suy nghĩ và sinh hoạt của mình, đặc biệt là tin vào những gì có tính tâm linh tôn giáo. Khi người Việt đặt niềm tin vào Trời với quan niệm về phẩm tính của Ngài là siêu việt, sáng tạo, quan phòng và xét xử, thì chính niềm tin đó ảnh hưởng trên tâm thức và mọi hoạt động của họ. Người Việt tin Trời ngự ở Nam Giao để họ đến gặp gỡ, hiện diện khắp nơi và thấy hết mọi tư tưởng và hành động của mọi người. Tin Trời quan phòng ban phát mọi ơn lành nên lập bàn thờ Thiên trước nhà mình để cầu khẩn và tạ ơn Trời…

1. Ý thức sự hiện diện của Trời

Từ việc hằng năm phải tế Nam Giao, cho thấy từ vua tới dân đều ý thức sự hiện hữu và sự quan phòng của Trời đến nỗi không thể không tế Trời để tỏ lòng hiếu kính. Đặc biệt chọn tế vào giờ Tý (giờ đầu tiên) của năm mới, như mong muốn chính Trời là vị đầu tiên “xông nhà” đất Việt, để cả năm nước Việt được an hoà .

Ý thức về sự hiện diện và quan phòng của Trời, nên người Việt luôn tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Trời. “Đi đâu cho thoát lưới Trời, ở đâu cho hạp mệnh Trời mới êm; Ai bảo Trời không có mắt?...” Nhưng ông Trời đó không phải là một nguyên lý hay một ý tưởng mông lung mơ hồ, huyền hoặc mà là một Đấng Siêu Phàm, vượt trên muôn loài, muôn sự; Đấng ấy làm Chủ vũ trụ càn khôn. Nên người Việt Nam thuộc mọi tầng lớp xã hội, tri thức hay bình dân đều gắn bó mật thiết với Trời.

Do đó, để việc “hội nhập văn hoá” cũng như để đẩy mạnh việc truyền giáo, thiết tưởng không thể bỏ qua việc tìm hiểu niềm tin vào ông Trời của người Việt Nam, vốn đã ăn sâu trong tâm khảm của người Việt Nam ngay từ khi còn sống như một bộ lạc và cho đến ngày nay

Linh mục Cadière một trong những người nước ngoài khi đến truyền giáo tại Việt Nam đã nhận ra điều thiết yếu đó, ngài đã ghi lại những lời sau đây có thể nói là “chìa khoá” để mở cánh cửa tâm linh của người Việt Nam.
“Hình như những ý nghĩa chính chúng ta thấy gán cho chữ Trời thuộc về cái rốn triết học riêng của dân tộc Việt Nam, vì ý niệm Trời đã ăn sâu vào trông tâm hồn người Việt Nam. Trời coi như các nguyên lý các hiện tượng thời tiết và nhân cách hoá, Trời coi như một Đấng Toàn Năng có ảnh hưởng vào vận mệnh của loài người. Người ta có thể thừa nhận như tôi tưởng, là cái ý nghĩa một Đấng Toàn Năng đã được trau dồi phát triển với ảnh hưởng các tư tưởng Trung Hoa, nhưng ngay từ khởi thuỷ trong ý thức Việt Nam đã sẵn có mầm sống của ý niệm ấy rồi. Bằng chứng như tôi đã nói, là cái ý niệm ấy đã thấm nhuần quá sâu vào tâm hồn người Việt Nam, và đã biểu hiện quá phổ thông trong ngôn ngữ bình dân dễ cho người ta nhìn thấy ở đây chỉ là một cống hiến ngoại lai. Những ý tưởng Phật giáo, những ý tưởng Nho giáo, theo quan điểm lịch sử chắc chắn từ Trung Hoa du nhập, đã không thấm nhuần vào đời sống tâm hồn, vào ngôn ngữ bình dân tới mức độ ấy được.”

Nhận định của linh mục Cadière trên đây rất đúng và rất sâu sắc, vì điều đó biểu lộ rất tự nhiên trong tâm thức của người Việt Nam. Cụ thể là người Việt Nam không chỉ thờ Ông Trời mà còn tôn trọng cả người được coi là Trời ở trần gian.

2. Kính trọng Thiên Tử

Trong việc ứng nhân xử thế hằng ngày của người Việt Nam có câu: “Kính trên nhường dưới”. Đối với người trên thì phải kính trọng, đối với người dưới thì phải nhường nhịn, yêu thương. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi người Việt Nam kính trọng vị vua cai trị nước; hơn nữa, họ tin rằng vị vua chính là thiên tử (con Trời), là người đại diện cho Trời để điều khiển dân theo lệnh của Trời. Qua tế Nam Giao cho thấy vai trò của Thiên Tử là sẽ truyền đạt cho dân ý muốn của Trời, để dân biết mệnh Trời mà làm theo, đồng thời vị thiên tử cũng chính là người đại diện cho dân để dâng lễ tế Trời, và tâu trình những công việc cùng những ước nguyện của dân lên với Trời.

Bởi đó vận mệnh của đất nước được hưng thịnh hay suy vong là do đời sống đức độ và sự khôn ngoan của vị thiên tử. Đức độ để nghe được mệnh Trời, khôn ngoan để thực hiện mệnh Trời, bên cạnh đó để hướng dẫn dân chúng làm đúng mệnh Trời. Đây là điều thiết yếu mà dân chúng luôn tỏ lòng tôn kính vị thiên tử cũng như những người có trách nhiệm coi sóc mình.

3. Tin vào mệnh Trời

Chữ “mệnh” hiểu theo nghĩa truyền thống Nho Giáo, tức Thiên Mệnh, Thiên Ý, nghĩa là ý Trời đã sắp đặt, điều khiển an bài mọi sự xảy ra trong vũ trụ. Do đó, trong cuộc sống người Việt luôn tin vào mệnh Trời, tức số mệnh hay hoàn cảnh, thời thế cảnh ngộ… bao gồm cả những hiện tượng thiên nhiên.

Sự sống sự chết đều ở trong quyền phép của Trời. Mệnh Trời đã sắp đặt và luôn hộ phù cho mọi công việc của con người, có khi là thuận lợi, có khi là nghịch cảnh, tai ương vượt quá khả năng ước đoán, ý muốn của con người.

Đứng trước mệnh Trời, người bi quan yếm thế, thiếu ý chí, nghị lực để chiến đấu với những khó khăn thì đâm ra thất vọng, buông xuôi than trách Trời: “Trời ơi, Trời ở chẳng cân, kẻ ăn không hết người lần không ra”, “Trời ghen ghét đầy đọa con người…” Trái lại, người có ý chí tự do mạnh mẽ thành tâm thiện chí thì cố gắng hết sức để thực hiện mệnh Trời; những nghịch cảnh chẳng qua là những cơ hội, những thử thách Oâng Trời muốn dùng để tôi luyện ý chí và lòngdũng cảm của những tấm lòng kiên trung.

Người Việt luôn tin vào mệnh Trời sắp đặt tất cả, và mọi sự do Trời mà có: “Trời sinh, Trời dưỡng; Trời sinh voi, Trời sinh cỏ; Trời cho ai nấy được; Trời gọi ai nấy dạ…”. Ngay bản tính con người cũng do Trời định: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Việc duyên tình cũng do Trời xe định: “Anh đi lục tỉnh giáp vòng, tới đây Trời định cho lòng thương em”.

Số mệnh mỗi người đã được Trời sắp đặt và ban ơn. Tuy nhiên, mỗi người cũng phải cố gắng hết khả năng để thực hiện mệnh Trời, chứ không thể thụ động như cánh lục bình nổi trôi giữa dòng nước. Muốn thực hiện trước mệnh Trời mỗi người cần phải khiêm tốn sống đúng hàng ngũ của mình: “Ngẫm thay muôn sự tại Trời, Trời kia đã bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”.

Người Việt tin tưởng vào mệnh Trời, và cũng luôn tỏ lòng biết ơn đối với Trời, nên hầu hết các gia đình Việt Nam đều có bàn thờ để “tế Trời” ở trước nhà.

4. Bàn thờ Ông Thiên

Lòng tôn kính Trời là Chủ vũ trụ bao la của người Việt không chỉ biểu lộ vào mỗi dịp đầu năm, khi vị thiên tử đại diện cho toàn dân tế lễ cho Trời, mà hầu hết các gia đình đều có một bàn thờ Ông Thiên ở trước nhà. Bàn thờ rất đơn giản: chỉ có một tấm ván đặt trên một cột gỗ, hay một tấm đan đặt trên một cột đúc. Lễ vật cũng rất đơn sơ, nhà nghèo mấy cũng có thể sắm được. Chỉ cần một bình bông, một bát nhang, một chén nước lã. Bình bông xinh tươi nhưng cũng rất mỏng manh như nói lên thân phận mỏng dòn yếu đuối của kiếp người cần sự che chở của Trời; nhang tỏa hương thơm ngát như những lời nguyện xin của con người dâng lên Đấng Chủ Tế càn khôn; nước lã như tấm lòng thanh khiết của con dâng trao cho Đấng làm chủ vận mạng đời mình.

Thông thường người gia trưởng đại diện gia đình đứng trước bàn thờ Ông Thiên thắp nhang, rồi vái tứ phương, miệng thầm thĩ những lời khấn xin cho gia đình, cho tổ quốc, cho thế giới…

Một nghi thức thật giản đơn, nhưng rất nhịp nhàng đều đặn theo thời gian, nghi thức này đã khắc sâu trong tâm hồn người Việt Nam. Nơi bàn thờ Oâng Thiên con người nối kết với ông Trời và liên kết với mọi người.

Qua đây, chúng ta thấy nghi thức này cũng rất gần với niềm tin Kitô giáo. Mỗi ngày chúng ta cũng đọc kinh ít là khi ban mai thức dậy để nguyện xin Chúa thánh hóa ngày mới, và khi bóng chiều đã ngả để dâng lời tạ ơn một ngày đã trôi qua, đồng thời xin Chúa thứ tha những thiếu sót và gìn giữ cho giấc ngủ an lành trong sự quan phòng của Chúa.

Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ tích cực hơn trong tiến trình “đối thoại liên tôn, hội nhập văn hóa” mà không sợ đụng chạm đến niềm tin sẵn có của người Việt, đồng thời không đánh mất căn tính Kitô giáo của mình.

KẾT LUẬN

Mọi sự đều sẽ qua đi theo thời gian. Nhưng điều gì là chân lý đều tồn tại mãi mãi. Đất nước Việt Nam đều trải qua bao thăng trầm, và rồi các triều đại, các chế độ, các hệ tư tưởng, các chủ nghĩa cứ lần lượt qua đi, nhưng niềm tinvào Trời là một chân lý mãi tồn tại trong tâm thức, ý thức và cả trong tiềm thức đến nỗi trở thành phản xạ tự nhiên của người Việt . Thật vậy, tự bản chất không thể không tin có sự hiện hữu của Trời, cho dù chủ nghĩa vô thần tìm cách chống lại: một giáo viên trung tìm cách dùng thuyết tiến hóa của Darwin để phủ nhận Trời tác tạo, nhưng sau đó lại nói “Trời mưa to quá” một viên chức cộng sản thường lấy Trời để nguyền rủa nhau “mày ở ác Trời trả cho mày’; một cán bộ vô thần khi bị kết án oan cũng kêu Trời chứng giám “mong đèn Trời soi xét”. Như thế dù muốn, dù không thì Trời vẫn luôn hiện diện bên con người. Tỉ như vua Gia Long đặt đàn Nam Giao ở Trường An , nhằm nhắc nhở cho dân biết Trời sẽ luôn ở với dân và ban phước cho họ. Như thế, Trời hay Thiên Chúa, một chân lý mãi mãi vững bền.


------------------------
 
Trang 1 trong tổng số 2 trang Chuyển đến trang 1, 2  Trang kế
Thời gian được tính theo giờ [GMT+7giờ]
Chuyển đến
 



Copyright © 2013 GIAOPHANVINH.NET :: All rights reserved.
Email biên tập: vinhconggiao@gmail.com || Ban quản trị: quantri@giaophanvinh.net